NHÂN VẬT TRẦN VĂN LÝ THEO BÁCH KHOA TOÀN THƯ MỞ- VIKIPEDIA CẬP NHẬT LÚC 05:25 NGÀY 14/10/2012 http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_V%C4%83n_L%C3%BD
(Phần chử nghiêng , màu xanh do Blogger bổ túc)
Ông Trần Văn Lý (1901 – 1970) là một nhân sĩ, nhà chính trị Việt Nam, quan nhà Nguyễn thời kỳ cuối, cựu Tổng đốc bốn tỉnh Tây nguyên, Thủ hiến miền Trung đầu tiên của Quốc gia Việt Nam.
Quê quán:
Ông quê gốc làng Hưng Nhơn( Kẻ Vĩnh), xã Hải Hòa, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.
(Đời thứ 15 chi họ Trần theo công giáo http://vietnamgiapha.com/XemPhaHe/8909/pha_he.html thỉ tổ người Thanh Hóa)
Trần Văn Lý là con trai cả của cụ Trần Văn Tự (sinh 1880) và bà Thị Đức (sinh 1885 tục gọi mụ Thừa ~ mụ Câu), ông có em trai là Trần Văn Trinh, Trần Văn Lộc, em gái thứ Trần Thị Kính, Trần Thị Truyền. Ông có quan hệ bà con với Giám mục [[Lê Hữu Từ]].
Sự nghiệp quan trường.
Tốt nghiệp Cao đẳng Hành chánh Hà Nội, ông làm Tham tá tại Qui Nhơn trong ngạch quan lại Pháp.
Sau đó do sự giới thiệu và giúp đỡ của Khâm sử Trung Kỳ, ông trở lại ngạch quan lại Nam triều với chức Thương tá Trung Phước (Bình Định), rồi Tri huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa). Ông có tiếng là một vị quan nổi tiếng liêm chính, sống giản dị, quan tâm đến dân chúng.
Quản đạo Đà Lạt
Ông giữ chức Quản đạo Đà Lạt (tương đương Chủ tịch Thành phố) từ năm 1926 đến 1935. Đà Lạt lúc đó là một vùng non sông cẩm tú, khí hậu ôn hòa nhưng thưa vắng người cư trú. Nhận thấy Đà Lạt là một vùng khí hậu mát mẻ, còn nhiều đất hoang chưa được khai phá và nhu cầu rau quả tươi sống của người Pháp ngày càng tăng lên là điều kiện để mở mang nghề trồng rau và hoa ở đây. Ông đã nêu sáng kiến về việc lập ấp trồng rau và hoa tươi cung cấp tại chỗ cho người Pháp tại Đà Lạt. Ông đã đề nghị Tổng đốc Hà Đông kiêm Chủ tịch Uỷ ban Tương tế trung ương Bắc Kỳ Hoàng Trọng Phu cho di dân từ ngoài Hà Đông vào xứ Đà Lạt để lập ấp trồng hoa và rau xanh. Tháng 5.1938, hơn 30 người là cư dân tỉnh Hà Đông từ các làng Quảng Bá, Nghi Tàm, Tây Tựu, Ngọc Hà, Xuân Tảo và Vạn Phúc đã có mặt tại Đà Lạt. Nhóm người này hình thành nên ấp Hà đông, tạo tiền đề cho nghề trồng rau hoa tại Đà Lạt sau này. Từ năm 1941, ấp Hà Đông bắt đầu làm ăn phát đạt nhờ nghề trồng hoa và rau cải nầy. Cuối năm 1941, có tất cả 28 gia đình ở ấp Hà Đông, tổng số 100 nhân khẩu. Sau đó khi ông Phạm Khắc Hòe kế nhiệm làm Quản đạo cũng lập ấp Nghệ Tĩnh.
Làm quan ở Trung Kỳ
Sau đó ông về Huế làm Tổng lý Ngự tiền văn phòng cho Hoàng đế Bảo Đại. Ông là người thanh liêm, cương trực, có tinh thần yêu nước và có khả năng quản trị. Năm 1942 ông thấy Nội các hoang sơ đã xin đem Châu bản và các thư tịch trong Nội Các ra Viện Văn hoá Huế để bảo tồn và chỉnh đốn, lưu giữ được những tài liệu lịch sử này.
Sau đó ông Phạm Khắc Hòe kế nhiệm chức vụ của ông, ông được bổ nhiệm chức vụ Tuần vũ Hà Tĩnh.
Ông theo đạo Thiên Chúa, hoạt động trong phong trào Cường Để chống Pháp tại miền Trung cùng ông Ngô Đình Diệm. Năm 1944 mật thám Pháp truy bắt các thành viên phong trảo, ông cũng bị ảnh hưởng (vợ ông có họ hàng với Nam Phương hoàng hậu) nên chỉ bị thuyên chuyển vào Phú Yên, vĩnh viễn không được thăng thưởng.
Tổng đốc miền Cao Nguyên
Tuy nhiên sang năm sau khi Nhật đảo chính Pháp mở đường cho học giả Trần Trọng Kim thành lập chính phủ đã mời ông giữ chức Tổng đốc cai trị 4 miền cực Nam Trung Việt như là một Tiểu Khâm Sai. Chức vị của ông lúc bấy giờ là “Tổng đốc Lâm-Đồng-Bình-Ninh” (bốn tỉnh Lâm Đồng, Đồng Nai, Bình Thuận, và Ninh Thuận), và vì lúc bấy giờ phương tiện giao thông và hệ thống liên lạc còn khó khăn cách trở nên ông được đại diện chính phủ toàn quyền giải quyết cấp thời công việc quốc gia.
Giai đoạn sau năm 1945
Đầu tháng 9 năm 1945, Việt Minh cướp chính quyền tại Đà Lạt bằng một cuộc biểu tình rầm rộ, vây dinh Tổng đốc bắt ông giải về Huế. Sau đó ông được tha. Trong khi đó những quan lại nhà Nguyễn khác như Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi đều bị chết thảm.
Khi Pháp tái chiếm Đông dương, từng bước xây dựng bộ máy chính quyền dân sư lâm thời đã trọng dụng ông.
Thủ hiến miền Trung thời Quốc gia Việt Nam
Tháng 2 năm 1947, quân Pháp tái chiếm Huế. Ngày 15 tháng 4 năm 1947, ông làm Chủ tịch Hội đồng Chấp chánh Lâm thời Trung Kỳ (sau đó đổi làm Thủ hiến Trung phần). Ông kêu gọi các nhân sĩ rời bỏ Việt Minh trở về cùng xây dựng tái thiết đất nước.
Trong thời gian đầu của cuộc chiến tranh Đông dương tình hình rất phức tạp. Năm 1947 hai nhà chính trị theo chủ nghĩa dân tộc là Chủ tịch Hội đồng An dân Bắc phần Trương Đình Tri bị [[Việt Minh]] ám sát tại Hà nội, Chủ tịch Mặt trận Toàn dân thống nhất cựu Khâm sai Nam Bộ [[Nguyễn Văn Sâm]] cũng bị giết tại Sài Gòn.
Để đảm bảo an ninh trật tự tại miền Trung ông cho thành lập Nha Cảnh Sát và Công An Trung Phần, phát triển lực lượng Bảo vệ quân (năm sau đổi là Việt Binh đoàn Trung phần) do đại úy Nguyễn Ngọc Lễ làm chủ huy.
Ông có tiếng là một vị quan nổi tiếng liêm chính, sống giản dị. Khi ông làm Thủ hiến, người em ruột của ông là Trần Văn Trinh, chủ sự phòng Nội dịch, ngày chủ nhật lấy xe Chính phủ về sử dụng riêng bị ông cất chức ngay, đối với các linh mục hay đến xin xỏ, nhờ cậy, ông thẳng thắn từ chối.
Tháng 3 năm 1948 ông từ nhiệm, người thay thế là ông Hà Xuân Hải.
Năm 1949 Quốc gia Việt Nam ra đời có nguyên thủ là Quốc trưởng [[Bảo Đại]], năm 1950 Thủ tướng [[Trần Văn Hữu]] bổ nhiệm ông thay ông Phan Văn Giáo làm Thủ hiến Trung phần, đến năm 1952 ông Trần Văn Hữu nghỉ, vì là bạn ông Hữu nên ông cũng bị thôi chức Thử hiến.
Hoạt động chính trị sau năm 1954
Sau năm 1954 ông sống ở Sài Gòn, tham gia hàng ngũ nhân sĩ đối lập chính phủ Ngô Đình Diệm.
Năm 1960 ông tham gia nhóm các nhân sĩ Caravelle kiến nghị lên Tổng thống Ngô Đình Diệm dòi cải cách thể chế.http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%B3m_Caravelle
Năm 1967 ông tham gia ứng cử chức Tổng thống trong liên danh Cái Lư cùng ông Huỳnh Công Đương.
Năm 1970 ông mất, thọ 69 tuổi (Ông mất ngày 12/04/1970 tại Pháp- không rỏ ông sang Pháp năm nào, và con cháu ông hiện nay ra sao?)
Một số thông tin về ông Trần Văn Lý tại các trang khác
Lập ấp Hà Đông tại Đà Lạt
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0ng_Tr%E1%BB%8Dng_Phu
http://www.adaly.net/dalat/histoire/
http://baoxaydung.com.vn/news/vn/van-hoa-the-thao/lang-hoa-dau-tien-giua-pho-hoa-a-lat.html
http://www.biethet.com/n410247-mau-thit-thu-do-tren-dat-lam-vien
Linh mục Cao văn Luận, nguyên viện trưởng viện Đại học Huế trong “Bên dòng lịch sử” có những đoạn viết về Cụ Lý rất trân trọng, cảm phục tư cách của cụ (kể cả trong hồi ký của tướng Đổ Mậu).http://songviet.com/mlib/index.php?
(Phần chử nghiêng , màu xanh do Blogger bổ túc)
Tư liệu ảnh của bà Nguyễn Thị Năm |
Tư liệu ảnh của bà Nguyễn Thị Năm |
Quê quán:
Ông quê gốc làng Hưng Nhơn( Kẻ Vĩnh), xã Hải Hòa, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.
(Đời thứ 15 chi họ Trần theo công giáo http://vietnamgiapha.com/XemPhaHe/8909/pha_he.html thỉ tổ người Thanh Hóa)
Trần Văn Lý là con trai cả của cụ Trần Văn Tự (sinh 1880) và bà Thị Đức (sinh 1885 tục gọi mụ Thừa ~ mụ Câu), ông có em trai là Trần Văn Trinh, Trần Văn Lộc, em gái thứ Trần Thị Kính, Trần Thị Truyền. Ông có quan hệ bà con với Giám mục [[Lê Hữu Từ]].
Sự nghiệp quan trường.
Tốt nghiệp Cao đẳng Hành chánh Hà Nội, ông làm Tham tá tại Qui Nhơn trong ngạch quan lại Pháp.
Sau đó do sự giới thiệu và giúp đỡ của Khâm sử Trung Kỳ, ông trở lại ngạch quan lại Nam triều với chức Thương tá Trung Phước (Bình Định), rồi Tri huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa). Ông có tiếng là một vị quan nổi tiếng liêm chính, sống giản dị, quan tâm đến dân chúng.
Quản đạo Đà Lạt
Ông giữ chức Quản đạo Đà Lạt (tương đương Chủ tịch Thành phố) từ năm 1926 đến 1935. Đà Lạt lúc đó là một vùng non sông cẩm tú, khí hậu ôn hòa nhưng thưa vắng người cư trú. Nhận thấy Đà Lạt là một vùng khí hậu mát mẻ, còn nhiều đất hoang chưa được khai phá và nhu cầu rau quả tươi sống của người Pháp ngày càng tăng lên là điều kiện để mở mang nghề trồng rau và hoa ở đây. Ông đã nêu sáng kiến về việc lập ấp trồng rau và hoa tươi cung cấp tại chỗ cho người Pháp tại Đà Lạt. Ông đã đề nghị Tổng đốc Hà Đông kiêm Chủ tịch Uỷ ban Tương tế trung ương Bắc Kỳ Hoàng Trọng Phu cho di dân từ ngoài Hà Đông vào xứ Đà Lạt để lập ấp trồng hoa và rau xanh. Tháng 5.1938, hơn 30 người là cư dân tỉnh Hà Đông từ các làng Quảng Bá, Nghi Tàm, Tây Tựu, Ngọc Hà, Xuân Tảo và Vạn Phúc đã có mặt tại Đà Lạt. Nhóm người này hình thành nên ấp Hà đông, tạo tiền đề cho nghề trồng rau hoa tại Đà Lạt sau này. Từ năm 1941, ấp Hà Đông bắt đầu làm ăn phát đạt nhờ nghề trồng hoa và rau cải nầy. Cuối năm 1941, có tất cả 28 gia đình ở ấp Hà Đông, tổng số 100 nhân khẩu. Sau đó khi ông Phạm Khắc Hòe kế nhiệm làm Quản đạo cũng lập ấp Nghệ Tĩnh.
Làm quan ở Trung Kỳ
Sau đó ông về Huế làm Tổng lý Ngự tiền văn phòng cho Hoàng đế Bảo Đại. Ông là người thanh liêm, cương trực, có tinh thần yêu nước và có khả năng quản trị. Năm 1942 ông thấy Nội các hoang sơ đã xin đem Châu bản và các thư tịch trong Nội Các ra Viện Văn hoá Huế để bảo tồn và chỉnh đốn, lưu giữ được những tài liệu lịch sử này.
Sau đó ông Phạm Khắc Hòe kế nhiệm chức vụ của ông, ông được bổ nhiệm chức vụ Tuần vũ Hà Tĩnh.
Ông theo đạo Thiên Chúa, hoạt động trong phong trào Cường Để chống Pháp tại miền Trung cùng ông Ngô Đình Diệm. Năm 1944 mật thám Pháp truy bắt các thành viên phong trảo, ông cũng bị ảnh hưởng (vợ ông có họ hàng với Nam Phương hoàng hậu) nên chỉ bị thuyên chuyển vào Phú Yên, vĩnh viễn không được thăng thưởng.
Tổng đốc miền Cao Nguyên
Tuy nhiên sang năm sau khi Nhật đảo chính Pháp mở đường cho học giả Trần Trọng Kim thành lập chính phủ đã mời ông giữ chức Tổng đốc cai trị 4 miền cực Nam Trung Việt như là một Tiểu Khâm Sai. Chức vị của ông lúc bấy giờ là “Tổng đốc Lâm-Đồng-Bình-Ninh” (bốn tỉnh Lâm Đồng, Đồng Nai, Bình Thuận, và Ninh Thuận), và vì lúc bấy giờ phương tiện giao thông và hệ thống liên lạc còn khó khăn cách trở nên ông được đại diện chính phủ toàn quyền giải quyết cấp thời công việc quốc gia.
Giai đoạn sau năm 1945
Đầu tháng 9 năm 1945, Việt Minh cướp chính quyền tại Đà Lạt bằng một cuộc biểu tình rầm rộ, vây dinh Tổng đốc bắt ông giải về Huế. Sau đó ông được tha. Trong khi đó những quan lại nhà Nguyễn khác như Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi đều bị chết thảm.
Khi Pháp tái chiếm Đông dương, từng bước xây dựng bộ máy chính quyền dân sư lâm thời đã trọng dụng ông.
Thủ hiến miền Trung thời Quốc gia Việt Nam
Tháng 2 năm 1947, quân Pháp tái chiếm Huế. Ngày 15 tháng 4 năm 1947, ông làm Chủ tịch Hội đồng Chấp chánh Lâm thời Trung Kỳ (sau đó đổi làm Thủ hiến Trung phần). Ông kêu gọi các nhân sĩ rời bỏ Việt Minh trở về cùng xây dựng tái thiết đất nước.
Trong thời gian đầu của cuộc chiến tranh Đông dương tình hình rất phức tạp. Năm 1947 hai nhà chính trị theo chủ nghĩa dân tộc là Chủ tịch Hội đồng An dân Bắc phần Trương Đình Tri bị [[Việt Minh]] ám sát tại Hà nội, Chủ tịch Mặt trận Toàn dân thống nhất cựu Khâm sai Nam Bộ [[Nguyễn Văn Sâm]] cũng bị giết tại Sài Gòn.
Để đảm bảo an ninh trật tự tại miền Trung ông cho thành lập Nha Cảnh Sát và Công An Trung Phần, phát triển lực lượng Bảo vệ quân (năm sau đổi là Việt Binh đoàn Trung phần) do đại úy Nguyễn Ngọc Lễ làm chủ huy.
Ông có tiếng là một vị quan nổi tiếng liêm chính, sống giản dị. Khi ông làm Thủ hiến, người em ruột của ông là Trần Văn Trinh, chủ sự phòng Nội dịch, ngày chủ nhật lấy xe Chính phủ về sử dụng riêng bị ông cất chức ngay, đối với các linh mục hay đến xin xỏ, nhờ cậy, ông thẳng thắn từ chối.
Tháng 3 năm 1948 ông từ nhiệm, người thay thế là ông Hà Xuân Hải.
Năm 1949 Quốc gia Việt Nam ra đời có nguyên thủ là Quốc trưởng [[Bảo Đại]], năm 1950 Thủ tướng [[Trần Văn Hữu]] bổ nhiệm ông thay ông Phan Văn Giáo làm Thủ hiến Trung phần, đến năm 1952 ông Trần Văn Hữu nghỉ, vì là bạn ông Hữu nên ông cũng bị thôi chức Thử hiến.
Hoạt động chính trị sau năm 1954
Sau năm 1954 ông sống ở Sài Gòn, tham gia hàng ngũ nhân sĩ đối lập chính phủ Ngô Đình Diệm.
Năm 1960 ông tham gia nhóm các nhân sĩ Caravelle kiến nghị lên Tổng thống Ngô Đình Diệm dòi cải cách thể chế.http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%B3m_Caravelle
Năm 1967 ông tham gia ứng cử chức Tổng thống trong liên danh Cái Lư cùng ông Huỳnh Công Đương.
Năm 1970 ông mất, thọ 69 tuổi (Ông mất ngày 12/04/1970 tại Pháp- không rỏ ông sang Pháp năm nào, và con cháu ông hiện nay ra sao?)
Một số thông tin về ông Trần Văn Lý tại các trang khác
Lập ấp Hà Đông tại Đà Lạt
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0ng_Tr%E1%BB%8Dng_Phu
Năm 1937 khi ông Trần Văn Lý, Quản đạo Đà Lạt đề xuất di dân lập ấp tại Đà Lạt, ông đồng ý với việc trên và giao cho Thương tá canh nông Hà Đông Lê Văn Định (sau này ông Định giữ chức Chánh án Tòa án hỗn hợp Đà Lạt) thực hiện. Năm 1938 nhóm cư dân gốc Hà Đông đầu tiên gồm 35 người thuộc các làng chuyên trồng hoa Tây Tựu, Quảng Bá, Nghi Tàm, Ngọc Hà, Xuân Tảo, Vạn Phúc ven Hồ Tây được đưa lên tàu hỏa vào Đà lạt. Nhóm cư dân này hầu hết là những nông dân khỏe mạnh, quen nghề làm vườn, được huấn luyện thêm phương thức canh tác của châu Âu, được hỗ trợ vay tiền của Quỹ tương trợ. Ấp được đặt tên là Hà Đông để tưởng nhớ quê cũ. Diện tích đất khai phá ban đầu ở Ấp Hà Đông chỉ từ vài chục ha lên hàng trăm ha, bà con vừa xây dựng nhà cửa vừa trồng trọt các loại rau hoa mang từ Hà Nội vào. Từ năm 1941, ấp Hà Đông bắt đầu làm ăn phát đạt nhờ nghề trồng hoa và rau cải nầy. Cuối năm 1941, có tất cả 28 gia đình ở ấp Hà Đông, tổng số 100 nhân khẩu. Việc thành lập ấp Hà Đông tạo tiền đề cho hoạt động sản xuất trồng rau và hoa của Đà Lạt sau này.
http://www.adaly.net/dalat/histoire/
.........Trong số các quản đạo do triều đình Huế bổ nhiệm cai trị cao nguyên, người ta còn nhớ các ông:Tôn Thất Hối, Tôn Thất Toại, Phạm Khắc Hòe, Trần Văn Lý....Ông Trần Văn Lý (1901 - ?) là một nhân vật có tiếng tăm ở miền Trung, quê ở Quảng Trị, tốt nghiệp cao đẳng hành chánh Hà Nội. Ra trường, ông Lý làm quan trong ngạch quan lại của Pháp, với chức tham tá tại Qui Nhơn. Sau đó, cũng như Phạm Khắc Hòe, do sự giới thiệu và giúp đỡ của Khâm sử Trung Kỳ, ông Lý trở lại ngạch quan lại Nam triều với chức Thương tá Trung Phước (Bình Định). Ông Lý giữ chức quản đạo Đà Lạt từ năm 1926 - 1935. Khi chức vụ này được Phạm Khắc Hòe thay thế, ông Lý làm Ngự Tiền văn phòng cho Hoàng đế Bảo Đại.
Đất Thánh Làng Hưng Nhơn |
Mộ Ông Trần Văn Tự- Cha Ông Lý |
Mộ Bà Mẹ Ông Lý |
http://www.biethet.com/n410247-mau-thit-thu-do-tren-dat-lam-vien
Linh mục Cao văn Luận, nguyên viện trưởng viện Đại học Huế trong “Bên dòng lịch sử” có những đoạn viết về Cụ Lý rất trân trọng, cảm phục tư cách của cụ (kể cả trong hồi ký của tướng Đổ Mậu).http://songviet.com/mlib/index.php?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét