Thứ Năm, 29 tháng 10, 2015

Ô Lâu, dòng sông quê hương ! (2)


Dòng Ô Lâu cũ (ảnh của bác Nguyễn Văn Hiền)
Hòa Viện Văn Quỹ Hưng Nhơn
(Duyên nợ ba làng)
NguyễnThanh Xuân
     Nhân đọc bài của tác giả Lê Ngọc Quốc http// queme quangtrihưngnhon.blospot.com 2012/05 Ô Lâu dòng sông quê hương (đăng ngày 14-12-2012)

     Sông Ô lâu dài gần 70 km từ dải Trường Sơn về phá Tam Giang nơi giáp ranh giữa hai tỉnh Quảng Trị-Thừa Thiên Huế có sự xen kẻ giữa làng xóm bờ Bắc-bờ Nam:
    Làng Câu Nhi- Quảng Trị ở bờ Bắc có xóm Câu Nhi Hòa ở bờ Nam; làng Hòa Viện Thừa Thiên Huề có bốn xóm thì  hai xóm ở bờ Nam, hai xóm ở bờ Bắc; làng An Thơ Quảng Trị có ngôi miếu và một sổ ruộng ở bờ Nam.
     Hai đoạn ở Câu Nhi và An Thơ tôi chưa đề cập đến mà chỉ trình bày hiểu biết của mình về làng Hòa Viện- Hưng Nhơn- Văn Quỹ (trong bài “Tầm vóc làng Hưng Nhơn” – tập NHỚ LÀNG, tôi đã nêu lên và có lời xin tìm hiểu sau). Nhân đây tôi xin trình bày suy nghĩ của mình.

   Tôi có may mắn là cả ba làng tôi đều thuộc từng ngõ (Hưng Nhơn làng tôi rỏ rồi; làng Văn Quỹ lúc nhỏ học ở đó - đã nói trong bài “Ký ức về chuyện hai làng Văn Quỹ- Hưng Nhơn trong tập “NHỚ LÀNG”); làng Hòa Viện, quê ngoại tôi có bốn xóm rất cách trở nhau.(tên từng xóm tôi không nhớ) Để tiện nhận vị trí tôi gọi theo số thứ tự kèm theo đặc điểm: Xóm 1 có nhà thờ Công giáo, Đình làng nơi có nhà ngoại tôi ở, xóm 2 có ngôi chùa, nhà thờ họ Hồ và họ Trần, bến đò Mụ Tú hằng ngày tôi sang xóm 3 giáp chợ Ưu Điềm để đi học, còn xóm 4, từ cầu Mụ Tú bờ Nam xuống và giáp làng Vĩnh An. Ở đó tôi có Mụ O (xóm O Bộ, chồng O làm Hương Bộ) và chị gái sang lấy chồng.
Ô Lâu (ảnh bác Nguyễn Văn Hiền)
    Diện tích hai xóm 1-2 ở bờ Bắc tôi ước chừng như một TAM GIÁC ĐỀU, mỗi cạnh ~ 1000m; giới hạn (hiện nay) bởi cạnh 1 là con sông nhỏ Văn Quỹ - Hòa Viện ; cạnh 2 là con sông nhỏ chạy dọc làng Hưng nhơn và cạnh 3 là bờ sông Ô Lâu từ bến Ngã Ba làng Hưng Nhơn lên giáp cuối làng Văn Quỹ
     Tôi cho rằng cạnh 1, cạnh 2 là dòng sông Ô LÂU trước đây còn cạnh 3 là đào mới để nắn dòng. Trên nhận diện như thế,tôi nêu mấy cứ liệu:

    1, Những di tích cũ:
    Cả ba làng đều chung một mô tuýp cổ điển cấu trúc đền đài nhà cửa là hướng ra sông.
    Ta thử xem nhà dân từ sau xóm Đông An –Văn Qũy đến giáp đầu làng Hưng Nhơn (cả nhà thờ giáo xứ Văn Quỹ) đều hướng ra sông.
     Ở Hòa Viện có đình làng miếu (khuôn viên này rất sầm uất, nhiều cây cổ thụ tường bao chiếm một diện tích rộng). Hướng Đình làng, nhà thờ, miếu đều hướng ra sông; nhà thờ Công giáo cũng hướng ra sông và nhà dân cũng vậy.
     Ở Hưng Nhơn: Tất cả nhà thờ , nhà dân đều hướng ra sông
Cầu Mụ Tú (ảnh bác Nguyễn Văn Hiền)

    2, Những dấu hiệu mới
    Tôi cho rằng cạnh 3 là đào mới nên bờ sông xuất hiện lở bồi.

    Bợơc lở: Ở phía bờ Nam đoạn từ đầu xóm 4 bị nước xói lở và ở cuối xóm 2 gần giáp Hưng Nhơn cũng bị lở. Do đất mới đào, bờ của nó chưa được “thuần hóa” với cường độ và lưu lượng dòng chảy khi mà nước dâng cao (tức nước vỡ bờ).
    Bãi bồi: Đối diện với bên lở, xuất hiện hai bãi bồi (trước mặt họ Hồ và Họ Trần xóm 2 và trước mặt nhà của xóm 4).
    Xin nói thêm là đối với những con sông hình thành ngàn đời rất it1 có hiện tượng lở bồi.
Phác thảo sơ đồ nắn dòng Ô Lâu


     Tôi cho đây là công trình vĩ đại , xem ra cả nước ta ít nơi nào có chuyện nắn dòng sông lớn như Ô Lâu. Lợi ích thật lớn lao, trí tuệ của cha ông ta thật tuyệt vời. Bên cạnh đó cũng để lại những hệ lụy mà con cháu đời sau không hiểu sao lại như vậy. Ví như làng Hòa Viện lại 2 bờ Bắc -Nam và 3 xóm cách trở, một làng diện tích nhỏ mà phải có 3 nghĩa địa; xóm 1 không có bến nước Ô Lâu; xóm Hội-Văn Quỹ mất bên Ô Lâu; làng Hưng Nhơn có sông chảy ngược (chảy từ hướng đông lên hướng tây). Đáng ra Hưng Nhơn cả làng được trực tiếp với dòng sông Ô Lâu, nay chỉ  chưa tròn trăm mét, và chỉ một bến Ô Lâu (bến Ngã Ba) cả Làng dùng một bến.

    Qua nghiên cứu về sông Ô Lâu , nếu dòng chảy như trên thì có thể xác định làng Hưng Nhơn đến vùng đất này để lập làng trước làng An Thơ.
     Liên tưởng trong Ô Châu Cận Lục của Thượng Thư Dương Văn An công bố năm 1553 có ghi trường hợp Ngài Nguyễn Quận người làng An Thơ theo vua Lê Thánh Tông 1477  đi đánh Chiêm Thành và được phong đến chức Đô Tổng binh sứ đạo Quảng Nam.
     Làng An Thơ đã có thời đó thì Hưng Nhơn không thể đến năm 1558 mới theo Nguyễn Hoàng vào ven sông Ô Lâu lập làng.
    Vấn đề tồn nghi, đề nghị quý học giả có tư liệu tin cậy bổ sung , xin cám ơn.
NguyễnThanh Xuân
Email: nhuxuan29@gmail.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét