(Bài của Ôn Nguyễn Như Xuân- 84 tuổi)
Ranh giới giữa hai làng cách nhau bởi
con hói, nước chảy ra tưới ruộng chung cho cả hai làng và nối liền
bằng một chiếc cầu có tên thường gọi là Cầu Cừa. Có lẽ cạnh đó
có cây Cừa. (cây cừa phía làng Hưng Nhơn). Cầu làm bằng gỗ lim, loại
gỗ quí, tốt rắn chắc, chịu mưa nắng, bền. Chiều rộng, dài khoảng 3x
8m, cao hơn mặt đường khoảng 0,8 – 1,0m.
Sau này tôi mới biết , Văn Quỹ có 4
xóm là Thượng An, Thái hoà, Phú Thọ và Đông An
chứ trước đây học trò chúng tôi quen chia làm 3 xóm là Xóm Hội, xóm Nước Mắm và Xóm Chùa. Xóm Hội từ cầu Cừa lên nhà thờ đạo kể cả đường ông Câu Mộ. Từ đường “Câu Mộ” lên hết làng là Xóm Chùa. Từ đường “Câu Mộ” xuống hết làng là xóm Nước Mắm.
chứ trước đây học trò chúng tôi quen chia làm 3 xóm là Xóm Hội, xóm Nước Mắm và Xóm Chùa. Xóm Hội từ cầu Cừa lên nhà thờ đạo kể cả đường ông Câu Mộ. Từ đường “Câu Mộ” lên hết làng là Xóm Chùa. Từ đường “Câu Mộ” xuống hết làng là xóm Nước Mắm.
Bảy tuổi tôi lên học trường Tổng tại
xóm Nước Mắm và khi Trường sửa chữa chúng tôi lên học ở Xóm Chùa.
Tuổi nhỏ của tôi đã sục sạo khắp cả ba xóm nhờ ở câu “nhất quỉ,
nhì ma…”
Ở Xóm
Chùa, các ngôi nhà thờ, có cổng vòm, có tường xây trông rất nghiêm
trang, có sáu cột tru. Cột trụ ở hai đầu bên trên có con nghê dáng vui
vui. Chúng tôi lấy lá quấn thành điếu thuốc đốt cho có khói rồi cho
nghê hút và cười khoái trá. Các cột trụ giữa thì không dám làm. Đặc
biệt ngôi chùa và tượng Phật (có đứa bảo là Bồ tát) Cả vùng đó
có thể nói Chùa là nhất, đặt tên là xóm Chùa cũng phải.
Ở xóm
Hội ấn tượng nhất là nhà thờ Đạo cao to và ông Linh mục người Pháp
(thường gọi là Cố đạo), râu trắng, dài hay dắt 4-5 con ngổng đi dạo
dọc đường. Không hiểu sao, hễ thấy ông đang đi đường này chúng tôi
tránh sang đi đường khác. (ở đó có hai đường đến trường). Nhà ông Câu
Mộ giàu lắm, nghe nói là con nuôi ông cố Đạo. Ông Câu Mộ có con trai tên
là Ân học cùng lớp với tôi, nó đọc tiếng Pháp rất hay, thầy thường
giao nó đọc trước, chúng tôi đọc theo.
Có lần chúng
tôi lên xem người nông dân bị oan gì đó đã treo cổ tự tử ở nhà ông Câu
Mộ, quan Phủ vào xử tại nhà. Tôi chỉ được nghe các bác bàn tán:
chết thì thiệt thân, họ giàu lại có cố Đạo thì làm gì được họ.
Năm 1940 Linh
mục người Pháp từ trần. Thi hài được an táng trước mặt nhà thờ.
Lăng xây nổi, hình khối chữ nhật chung quanh có lan can, trên nấm có
đắp hai thiên thần có cánh, tay bưng lọ hoa chầu người dưới mộ. Cậu
ruột tôi ông Hồ Đình Thân, người làng Hoà Viện, Phong Điền Thừa Thiên
nhưng nhà ở chỉ cách ngôi mộ khoảng 400m. Là một nhân sĩ, ông cho là
làm thế không đúng nên ông có bài thơ:
Đầu đề tôi không nhớ.
Nguyên bài
như sau:
Trước toà Hội thánh có lăng xây
Sắp sửa khen ai khéo đặt bày
Dưới đất Thiên thần quỳ giúp lễ
Trên mồ Thánh giá đặt nằm ngay
Nắng mưa đành chịu không than thở
Lò chậu bưng hoài chẳng đổi thay
Tiên múa vì tiền thường có nói
Thần e cũng vậy khác đâu vay !./.
Đoàn chức
sắc của giáo xứ Văn Quỹ khoảng 7-8 người sang nhà cậu tôi, tôi thấy
có ông Câu Mộ, ông Lý Khiết (bố thằng Y và Khoa, song sinh) học cùng
lớp với tôi. Đoàn sang phân trần gì đó và đề nghị cậu tôi thu hồi
bài thơ lại. Cậu tôi vui vẽ nói vừa đùa vừa nghiêm chỉnh: Thơ a mà!
Ai thích thì đọc, ai chê thì thôi. Họ nghe qua lỗ tai rồi thu lại làm
sao.
Nghe người
lớn khen hay và thấy cái dáng vừa tức tối vừa băn khoăn của mấy ông
chức sắc đứng quanh mộ. Người thì bảo phá chổ này người bảo phá
chổ kia, học trò chúng tôi càng thích và đứa nào cũng thuộc làu,
làu hơn cả những bài thầy giáo bắt học thuộc lòng trong sách giáo
khoa. Đi học về ngang qua đó là rống to: Trước toà hội thánh có lăng
xây… Trước toà…Mấy hôm sau người ta phá hết chỉ còn lại nấm mồ. Bây
giờ ngôi mộ vẫn còn.
Khoái
nhất là lần đầu tiên được đá banh “mút” (như cao su vo tròn bằng quả
banh bưởi, do nhà thằng Ân mua) tại sân gạch ông Câu Mộ. Trận đá thi (đấu)
giữa học trò Văn Quỹ và học trò Hưng Nhơn. Kết quả Hưng Nhơn 2 Văn quỹ
3. Chúng tôi thua và tự nêu lý do là chưa quen đá sân gạch và banh
mềm. Nhìn chân đứa nào máu cũng chảy luyềm loàm bởi quyệt nền
gạch. Sáng hôm sau gặp nhau đứa nào cũng nói đêm qua bị mạ chửi bởi
trằn trọc không ngủ : tức vì thua.
---***---***---***---
Sau CM
tháng 8, bắt đầu năm 1947 cho đến ngày ký hiệp định đình chiến 1954,
Văn Quỹ chịu đựng với súng đạn căng thẳng hơn Hưng Nhơn và cả xã Hải
Phong bởi phía VNCH đóng đồn ở Ưu Điềm (chiến lược) kiên cố chỉ cách
con sông rộng không quá 100m. Sông tuy hẹp nhưng nhờ có sông mà chính
quyền VNDCCH vẫn hoạt động bình thường. Người dân phải rất nhiều mưu
trí và dũng cảm mới sống nổi. Bến đò ở xóm Nước Mắm là nơi qua
lại thường ngày sang chợ Ưu điềm. Ở làng tiêu đồng bạc cụ Hồ, sang
chợ tiêu tiêu hai loại: đồng bạc Đông Dương lẫn đồng bạc cụ Hồ. Lính
trong đồn ra giữa chợ hễ thấy bạc cụ Hồ là chúng xé. Các bà đi
chợ cứ tiêu bạc cụ Hồ vẫn an toàn, ấy mới tài!
Việc tổ chức
các cuộc họp để báo cáo hoặc phổ biến chủ trương phần lớn họp về
đêm và địa điểm họp là phần nữa sau Xóm Chùa cũng có khi ở Xóm
Hội. Đội dân quân du kích, đội biệt động phải chốt các ngã đường
trọng yếu (bến sông) và nhiều lúc phải áp dụng “nội bất xuất,
ngoại bất nhập”. Khi cần phải họp ban ngày, người đi họp phải “nguỵ
trang như người đi cày, đi đạp nước” để tránh con mắt nhòm ngó phía
bên kia sông. Nếu họp ban đêm đi phải im lặng không chuyện trò và lần
mò trong tối cho dù trời không trăng sao.
Xin kể vắn
tắt chuyện mà tôi không thể quên:
Chuyện thứ nhất: Lễ Noel năm 1952, Linh mục giáo xứ Văn
Quỹ mời đại diện Lãnh đạo xã Hải phong lên dự lễ. Ông Thao (Mặt
trận) tôi (UB) lên dự. Chúng tôi ngồi băng ghế giữa, cách bục giảng
mươi mét. Khoảng 5m trên đó có ghế băng nhưng không có người ngồi.
Khi linh
mục rao giảng, (đến đoạn nào đó) tất cả tín đồ phải qui xuống, có
người đến bảo chúng tôi quì. Tôi bấm tay ông Thao và thống nhất không
quì. Trong bài rao giảng của Linh mục cho tín đồ hôm đó có câu đại
ý: Chúa là hiện thân của hoà bình, thế mà hiện nay có những người
tụ tập nhau lẫn lút ở rừng núi mưu toan gây chiến tranh v.v…Sau lễ
Linh Mục mời hai chúng tôi đến phòng khách dự “tiệc” hoa quả, bánh
trái…Trao đổi lại nội dung với Đảng uỷ và UB. Hôm sau đoàn của Linh
mục Giáo xứ Văn Quỹ về trụ sở xã theo lời “mời” của UBKCHC xã Hải
Phong…
Chuyện thứ
hai: Văn Quỹ - Hưng Nhơn có chung con hói tưới nước cho cả hai cánh
đồng, dĩ nhiên vụ trái năm nào cũng không đủ nước cho cả hai cánh
đồng, tuy vậy vẫn không thấy có tranh chấp gì. Vụ trái năm 1952 lại
có chuyện. Hôm đó Ban Thông tin chúng tôi đang trên đường đi viết khẩu
hiệu ở Văn Quỹ và Câu Nhi, bất chợt mấy người chạy đến kéo tôi là phải
ra gấp không thì nguy to (tôi lúc đó là uỷ viên HĐND xã). Chưa kịp hỏi
gì chúng tôi chạy ra đến nơi mới biết hai bên đang giằng nhau mấy
chiếc cọc tre để chặn giòng nước giữa hai làng với bộ mặt đùng
đùng sát khí. Trong tôi chưa nghỉ ra câu gì để nói chỉ nhảy ào ra
giữa chổ giằng co, nhìn vào họ và tôi nói. Không biết tôi đã nói
những gì với họ, phút chốc thấy một bác ném cọc tre xuống, bùn
nước văng lên tung toé, mấy người khác vất xẻng lên bờ và nhiều
tiếng nối tiếp nhau: về thôi, về thôi…Hôm sau một cuộc họp đại diện
hai thôn tại UB xã và đâu vào đấy: bình yên…
Tôi hẹn
bụng sẽ hỏi lại các cụ cùng trang lứa ở Văn Quỹ có nhớ lần ấy
không, thế mà chưa có dịp nào may mắn.
Kính chào
trân trọng Văn Quỹ thân thương, mảnh đất mà từ tuổi vỡ lòng đến tuổi
vào đời (tuổi 25) tôi gắn bó.
Email: nhuxuan29@gmail.com.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét