Xin được giới thiệu tập sách Ông Nguyễn Như Xuân viết về quê hương
NHỚ LÀNG (KÌ XV )
NHỚ LÀNG (KÌ XV )
Kí ức vào đời
Hai lần bị bắt
Hai lần bị bắt
Bị
bắt lần thứ nhất
Lợi dụng mùa nước lũ, trong làng các hầm cá
nhân ủng nước, ngoài cồn mã, ruộng cũng lênh láng nước và nước.
Phía VNCH tổ chức những cuộc càn quy mô nhỏ, bất ngờ nhằm đánh lạc
hướng đề phòng của ta. Tin địch về tôi vội chạy ra đồng, băng qua mấy
cồn mã, nhào xuống ruộng ngoài cồn Mồ kiềm giữa. Đạn rơi lụp bụp
bốn phía’ Tôi vơ đám cỏ lùng tấp lên mặt. Một chiếc nôốc trượt kéo
đám cỏ và chúng xum lại kéo tôi lên. Vừa đánh vừa cho thuyền rong
vào đường bạng xóm Thượng, tay tôi bị trói
chặt.
Một thằng quát: Lý trưởng mày đâu?
Tôi đáp: Làng tôi không có Hội tề.
- A!
thằng ni nói giọng Việt cộng.
Đứa lấy khăn bịt miệng, đứa cởi ủng
múc nước đổ vào. Bụng tôi căng lên. Tôi không biết gì hết. Đứa đá bên
này, đứa đá bên kia, người tôi bụng căng cứng, tay chân mềm nhũn.
-Dừng!
Một thằng hét, có tiếng còi tập trung.
Chúng dong tôi đi theo
đường trôôn xóm thượng theo dọc đường cái đi về, khi ngang qua nhà tôi,
tôi cố ngẫng cao đầu và ngoảnh ra bờ hói, cố tránh sự khóc lóc của
người nhà, sợ chúng phát hiện ra sẽ liên luỵ tức khắc. Đến cuối
làng An thơ chúng đưa sang Vĩnh an rồi đưa thẳng lên Mĩ chánh, tống
vào lô cốt. Nằm lô cốt, té ra chúng chỉ bắt được một mình tôi. Tôi
nhớ chiều nay rất nhiều thanh niên sao chúng chẳng bắt ai. Lạ nhỉ!
Sáng, chúng lôi lên tra khảo và hỏi lung tung. Tại sao mày chạy trốn.
Tôi nói gọn: các ông đem súng bắn lung tung tôi sợ phải chạy. -Thằng
này lý sự. Đánh, đánh , đánh là không biết cũng phải biết mà khai.
Cứ thế loanh quanh suốt buổi. Nghỉ, chiều làm tiếp…
Sau ba bốn ngày hành hạ, tối đó một lính vác
súng, một người quần áo trắng đến lô cốt gọi tôi lên có người gặp.
Từ bộ ghế ngựa hai người đứng dậy ra nhìn tôi rồi kéo vào chỉ tôi
ngồi cùng bức ngựa. Tôi rut rè ngồi cạnh. Trên bức phản có mấy đĩa
kẹo bánh và ấm nước. Nguyễn Văn Bình người Văn Quĩ , Nguyễn Văn Bá
người Phú kinh, đã cùng tôi làm trong UBKCHC xã Hải phong.Tôi và Bá
có bà con gần: mụ o tôi là mẹ Bá. Cuộc gặp, hai anh nói đơn giản là
chúng ta biết nhau rồi, có chi mà phải nói nhiều; sang đây làm với
nhau cho vui. Anh hiểu cho, tôi và Bình mới biết chiều nay, làm anh
khổ. Để ghi cung của người bị bắt là tôi và Bình mà đã biết rồi
thì cần chi phải hỏi nữa. Yên tâm, nó hạ giọng: “đừng làm khó cho
tôi”. Hơi bất ngờ, tôi chưa nghỉ ra câu gì để nói, và xin để suy nghĩ.
Trở lại lô cốt. Chắc cả hai đều làm Phòng Nhì cho Pháp rồi.
Ngủ dậy thấy
những người “chăm sóc” tôi mấy hôm rồi có dáng như gần gủi. Chiều vợ
tôi lên, (sao đẹp thế), tôi suýt bật thành lời. Vợ đưa tôi tấm khăn
tắm cỡ 80x140cm trắng toát, mịn màng tương phản với cảnh lem nhem
trong lô cốt. Bọn lính nháy nhau ở tù mà sang thế. Vợ tôi lí nhí: em
không mua, của ai thì anh biết rồi đó. Tuỳ anh! Tôi định nói cầm về
nhưng kịp ghìm lại, không nên căng thẳng.
Có một sáng
sau những ngày căng thẳng, mệt mỏi và nhàn rỗi, môt người (mặc áo sơ
mi trắng) rủ tôi đi cùng anh ta ra
chợ Mĩ Chánh dáng vui vẽ như bạn bè. Đi để làm gì, tôi cũng không
hỏi.Tôi đi theo, chưa đến chợ tôi
dừng lại và nói không thích đi chợ, tôi chẳng cần gì.Tôi quay
lại, người ấy nói như nài nĩ: thì đi chơi cho thoải mái, ngồi trong
lô cốt không mệt à. Không tôi không đi. Tôi quay về người ấy cũng miễn
cưởng trở lại.Tôi vào lô cốt tự hỏi, sao anh ta cho đi ra chổ đông
người không có lính kèm, không trói tay, họ không sợ mình trốn à. Tôi
chưa tìm được lời giải. Hình như mấy hôm nay tôi không được tắm, chiếc
khăn trắng đã lem bẩn xấu xí, nhàu nát.
Chưa mờ sáng
đã nghe tiếng gọi ra sắp hàng. Nhìn thấy toàn là người làng Hưng Nhơn, dể chừng hơn
hai chục người. Tôi à lên ngạc nhiên : lần này nó tóm gon tất cả
thanh niên làng mình không sót một ai, không thấy ai bị trói và bị
đánh đập như tuần trước bắt tôi. Chưa kịp hỏi nhau câu gì chúng đã
lùa lẽn xe chở ra Quảng tri rồi chở vào Huế. Chúng bắt ta đi lính. Một
ngày ở Văn Thánh Võ Thánh. Mưa như trút nước. Sông Hương nước đỏ
ngầu. Hôm sau chúng chuyển về đồn Địa Linh (trong số bị bắt, hiện nay
còn sống ở làng là Nguyễn Đức Hối, Nguyễn hữu Tân) .
Chỉ mấy hôm,
chúng gọi tôi lên bảo là kiểm tra văn hoá để đi học sĩ quan. Đề ra
bài văn là: có bạn thân đang bên Cọng sản. hãy vì tình bạn mà khuyên
bạn về với quốc gia, quốc trưởng Bảo đại.
Không nhớ tôi viết thế nào mà hai hôm sau, tên Đồn trưởng gọi
tôi lên Văn phòng ông ta (chỉ mình ông với tôi). Ông ta cười nhẹ báo tin
tôi được đi học, rồi gằm mặt xuống kể hai tội của tôi. Một là nội dung bài văn sặc mùi
cọng sản và hai là, ông dừng lại hơn vài ba phút như cân nhắc điều
sắp nói. –Sao không báo với tôi mà viết truyền đơn dán lên khắp
tường. Tù, tù rục xương, Giọng trấn áp. Tôi thực sự hơi hoảng, nhưng
kịp trấn tĩnh. – Tôi biết gì đâu mà dám lên với quan, họ dán giấy
lên tường à. Đừng ỡm ờ ! Dù có viết toàn chữ kiểu say rượu tôi vẫn
khớp được chữ anh (chữ bài thi và
chữ dán trên tường), anh giúp tôi đừng làm tôi thất vọng. Giọng nó
sao mềm thế, tôi đang là cái gì mà Đồn trưởng lại bảo giúp nó. Tôi
nghĩ. Tôi nhỏ nhẹ thăm dò: họ viết nói gì? Anh quên rồi hả? Ăn uống
khổ, mất vệ sinh, lính mà đánh bạc suốt đêm v.v…Đúng như thế thật,
nhưng không được nói ra. Tôi không
biết gì đâu, tôi xin về trại.
Đêm, trằn trọc, mấy tiếng đi học, giúp
nó, giọng mềm và trấn áp của tên
Đồn trưởng cứ chờn vờn không sao ngủ được. Sực nhớ câu quốc tưởng
Bảo Đại, cái không thiện chí với Bảo Đại trổi dậy; Lần đi đón tức
chết đi được, miệng nói làm công dân hơn vua, làm cố vấn cho cụ Hồ
rồi trốn và trở mặt làm Quốc Trưởng…Ai bầu…? Phải trốn, trốn bằng
cách gì, tôi cũng không biết chỉ biết là phải trốn.
Tình cờ nghe chuyện mưu mẹo của một người
hoản bắt lính bằng cách cho tỏi vào nách rồi van la nóng rét.Kẹp
nhiệt độ sẽ lên cao. Tôi liều bắt chước và Y tá đồn đang đêm cho tôi
vào viện điều trị bởi sốt đột ngột. Người tôi nhẹ băng, thoải mái
nhưng phải đắp chăn trùm kín mít và không ăn. Tự khổ sai dăm hôm, rồi“đỡ dần ra”.
Sau đó họ cho ra viện. Cầm tờ giấy ra
viện mới biết đây là đồn Mang Cá. Giấy ghi nghỉ 5 ngày. Nhanh như
chớp, đây là cơ hội cho ta trốn. Tôi ghi thêm sau chữ nghỉ 5 ngày: ở
nhà tại làng Ưu Điềm..Đã liều là liều. Tôi đi chuyến xe chiều Huế-
Ưu điềm. Đến căn cứ Mỷ Chánh, dừng xe kiểm soát. Tay tôi chìa giấy
nhưng vẫn cầm chặt và đọcluôn nghỉ 5 ngày tại Ưu điềm bằng tiếngTây
Tên lính vội đẩy tay tôi và cả giấy, miệng nói được rồi, được rồi.
Nhẹ hắn người nhưng không dám thở. Đến giờ này tôi như đang ngồi trên
đống lửa: không thể xuống chợ Ưu điềm được vì đó là đồn lính và nhiều
người biết tôi. Có thể do mừng mà sinh chuyện lòng tự nhủ. Qua khỏi đồn Câu Nhi Hoà,
phải xuống! Vào bất cứ nhà nào phía bở sông, đêm lội sang Câu nhi,
hoặc băng đồng sang thôn Chùa, làng Ưu điềm. Xuống xe, trời chạng
vạng, rẽ đường cái bước vào ngõ như vào nhà mình, trong nhà có
người hốt hoảng chạy ra. Tôi trốn lính. Tôi là con ông cửu Liên, thợ
mộc làng Hưng nhơn. Ở gần đồn, vào nhà, tiếng nói âm ấm trong nhà
vọng ra. Tốt rồi. Bác chủ nhà lại tiếp: Tôi về làm ruộng với gia
đình mình nhiều, tôi cũng biết chú nhưng chú làm việc mô trên tỉnh
trên huyện chi đó nên không gặp mấy. Quay sang sai con gái nấu cơm nóng
cho chú ăn ấm bụng. Bây giờ tôi mới thấy bụng mình đói quặn. Thay bộ
áo quần nông dân, 3 người đưa tôi lên thôn Chùa làng Ưu điềm quê vợ tôi.
Chặng đường quen mà lạ, lạ mà thân
thương: Ưu điềm- Thượng nguyên--Trầm--Khe mương-- Hải đạo-- Hưng
nhơn--Hải phong cho đến ngày tập kết ra Bắc. Đoàn của xã Hải phong do
Nguyễn Ngôn (người Hà lỗ) làm Trưởng đoàn. Hưng nhơn chỉ một mình tôi
đi. Ngày 28-7-1954, hai ngón tay giơ lên
biểu tượng của xa nhà hai năm thế rồi hai mươi môt năm biền biệt
và vẫn biền biệt cho đến khi tôi ngồi viết những dòng này
Năm 1973, nhân đọc một bài viết của
nhà văn miền Nam gửi ra nói về một
trong những chuyện cán bộ cốt cán của ta theo về phía Mỹ Nguỵ, có
trường hợp bị trở thành tay sai đắc lực cho nó. Chuyện rằng cán bộ
ta bị bắt, có người chúng cho ăn uống tử tế, tự do đi lại (tất nhiên
có người theo dõi), mỗi ngày mỗi được ăn uống tốt hơn, cho đi chơi
đến chổ đông người với thái độ thân thiện. Môt thời gian, nó thấy
“cán bộ ta” đã mê cảnh ăn chơi và đặc biệt bị dư luân bà con xôn xao
rằng đã theo giặc.Chúng hỏi: anh bây giờ đã muốn về nhà chưa, muốn
về thi cho về, như không muốn về thì ở lại với chúng tôi. Chỉ cần
kí vào giấy nầy: ĐƠN CHIÊU HỒI..
Bất giác tôi rùng mình nhớ trường
hợp mình bị bắt, có lẽ cũng theo dạng nầy. Ba ngày sau khi tôi trốn,
ở làng đã biết tôi trốn do người Phú Kinh đưa tin từ Huế ra. Những
người làng bị bắt đi lính đang ở đồn Địa Linh (Huế) tưởng tôi còn
nằm viện chưa về chứ không biết tôi đã trốn. Năm 2004 chú Tân (đã nói
ở trên) hỏi tôi chơ trốn khi mô và đi đường mô mà tài rứa.
Nếu những ngày bị bắt ở Mĩ chánh,
chỉ riêng việc tôi ra chợ với “phòng nhì” thì sự việc sẽ khác. Chợ
Mĩ Chánh sáng nay có chuyện gì khác, tức khắc chợ chiều Ưu
điềm biết hêt: làng tôi, làng Ưu điềm đi chợ đông lắm
mà tôi lại nhiều người biết.
Tôi sẽ không dám vào xóm Câu Nhi Hoà
cũng không dám đến thôn Niêm, thôn Chùa nếu tôi đi chợ Mĩ chánh với
chúng. Họ sẽ trói gô tôi và “đem trả lại đồn Mĩ chánh”. Tôi biết họ
là những người trung thành tuyệt đối với bên ta (Việt minh).
Cũng may cho tôi và cũng đúng với tâm
trạng buổi đầu bước vào đời./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét