Những ngày tháng này, Hưng Nhơn rộn ràng mừng vui, lần đầu tiên quê nhà tổ chức :
TRAI ĐÀN BẠT ĐỘ, CHẨN TẾ ÂM LINH CÔ HỒN.
Bao người con tha hương có dịp về thăm quê cha, đất tổ...Bao cách trở, bao nhớ thương sẽ được hàn gắn, bày tỏ nỗi niềm bấy lâu!
Là một người con tha hương gần 50 năm, có những lúc bỗng thoáng nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn, nhớ về nhà thờ họ tộc, về lăng mộ tổ tiên, về một nỗi nhớ nào đó mà không thể hình dung ra...không về được vì còn vướng nợ phong trần, thật tiếc...! xin chúc bà con làng mình thân tâm an lạc, cầu mong chư hương linh được siêu thoát!
P/s: Hơn nữa đời người, là con Phật nhưng phải lang thang trên mạng để tìm hiểu nghĩa của "Trai đàn bạt độ" là gì:
Ý NGHĨA TRAI ĐÀN BẠT ĐỘ, CHẨN TẾ ÂM LINH CÔ HỒN
http://chuaquanam.com/index.php?page=y-nghia-trai-dan-bat-do-chan-te-am-linh-co-hon
Ý nghĩa trai đàn Bạt độ
Giải oan Bạt độ có nghĩa là cởi bỏ oan khiên trói buộc, nhổ sạch phiền não đưa hương linh qua sông mê về bến giác. Lễ giải oan Bạt độ mang một tính cách vô cùng quan trọng là ta luôn nghĩ đến những oan hồn uổng tử, những bất đắc kỳ tử trong thân thuộc dòng họ đang chơi vơi nơi cảnh ngạ quỷ cô hồn, chưa được siêu thoát mong được hóa giải cứu độ....
GIẢI THÍCH ĐỀ MỤC:
Trai đàn ( 齋 壇 ) nghĩa là Đàn chay. Trai, là chỉ tổ chức cúng lễ hoàn toàn dùng đồ thực phẩm hoa quả, đèn nến chay tịnh. Đàn, là cách thiết lập hình thức lớn và tuân thủ một nguyên tắc nhất định. Ở đây Đàn tràng tuân thủ theo nguyên tắc bố trí Mạn Đà La của Mật tông.
Chẩn tế ( 振 濟 ) nghĩa là cấp phát và cứu giúp. Đây là một hình thức Bố thí cho cõi âm. Vì vậy, để người trong Âm giới hưởng được lợi lạc, không còn bị đói khổ hành hạ mà nhẹ nhàng siêu thoát, chúng ta phải vận dụng Nghi thức Đàn Tràng để đạt đến năng lực vô biên từ Thân- Khẩu- Ý thanh tịnh, mới mong cứu giúp các Vong hồn.
Giải oan ( 解 冤 ), Giải là cởi bỏ, oan là oan nghiệp oán thù, Nghĩa là cởi bỏ sự níu kéo oán thù của nhau. Khi sống, ta vô tình hay hữu ý tạo ra hiểu lầm, hay vì u mê, khốn khổ, sân hận đưa đến oán ghét muốn trả thù làm hại nhau.v.v. Vì oán hận nhau mà ta cột ta với người khác bằng sợi dây oan nghiệt. Bởi vậy, chỉ có Năng lượng vô biên của Phật pháp được tạo ra bởi sức chú nguyện của chư Tăng trong Đàn Tràng mới mong cắt đứt sợi dây oan khiên nhiều đời nhiều kiếp.
Bạt độ ( 拔 度 ). Bạt là nhổ lên, độ là đi qua. Muốn thuyền qua được bờ bên kia, ta phải nhổ cái neo cắm, đã cột chặt chiếc thuyền vào bờ bên này. Ta muốn Hương linh của chúng ta thoát mình ra khỏi những ràng buộc trong oan khiên nghiệp chướng nhiều đời để lên được bến bờ giải thoát, ta phải giúp họ nhổ sạch gốc rễ lầm lỗi. Do tham lam, do sân hận, do si mê mà ta như cái cây, càng sống càng đâm rễ bám sâu vào mảnh đất của tội lỗi nghiệp chướng. Không nhờ Đàn Tràng với sức mạnh của công năng tập thể, ta không nhổ sạch được gốc rễ tội chướng.
.............
Thập loại cô hồn gồm có:
1. Thủ hộ quốc giới: là loại oan hồn vì nước bỏ mình.
2. Phụ tài khiếm mạng: là loại oan hồn chết vì trái chủ oan gia, trụy thai, hay sẩy thai.
3. Khinh bạc Tam Bảo: là loại oan hồn vì tạo nghiệp bất hiếu, phụ nghịch, vô đạo, khinh chê Tam Bảo.
4. Giang hà thủy nịch: là loại oan hồn chết sông, chết biển.
5. Biên địa tà kiến: là loại oan hồn ở nơi biên ải hẻo lánh xa xăm.
6. Ly hương khách địa: là loại oan hồn phiêu bạc tha hương, chết đường, chết bụi.
7. Phó hỏa đầu nhai: là loại oan hồn chết vì tự tử, trầm mình xuống sông, núi, chết đâm, chết chém..
8. Ngục tù trí mạng: là loại oan hồn chết vì bị tra tấn, khổ nhục trong lao tù.
9. Nô tì kết sử: là loại oan hồn chết vì bị đánh đập, hành hạ, đày đọa.
10. Manh lung ám á: là loại oan hồn lúc sống bị đui, què, câm, điếc, cô quả không ai chăm sóc.
....Xin mượn một số hình ảnh của: Chú Lê Đăng Mành (làng Văn Quỷ), hai Eng Nguyễn Hữu Bửu, Nguyễn Như Khoa (làng Hưng Nhơn)...chân thành cảm ơn!
http://chuaquanam.com/index.php?page=y-nghia-trai-dan-bat-do-chan-te-am-linh-co-hon
Ý nghĩa trai đàn Bạt độ
Giải oan Bạt độ có nghĩa là cởi bỏ oan khiên trói buộc, nhổ sạch phiền não đưa hương linh qua sông mê về bến giác. Lễ giải oan Bạt độ mang một tính cách vô cùng quan trọng là ta luôn nghĩ đến những oan hồn uổng tử, những bất đắc kỳ tử trong thân thuộc dòng họ đang chơi vơi nơi cảnh ngạ quỷ cô hồn, chưa được siêu thoát mong được hóa giải cứu độ....
GIẢI THÍCH ĐỀ MỤC:
Trai đàn ( 齋 壇 ) nghĩa là Đàn chay. Trai, là chỉ tổ chức cúng lễ hoàn toàn dùng đồ thực phẩm hoa quả, đèn nến chay tịnh. Đàn, là cách thiết lập hình thức lớn và tuân thủ một nguyên tắc nhất định. Ở đây Đàn tràng tuân thủ theo nguyên tắc bố trí Mạn Đà La của Mật tông.
Chẩn tế ( 振 濟 ) nghĩa là cấp phát và cứu giúp. Đây là một hình thức Bố thí cho cõi âm. Vì vậy, để người trong Âm giới hưởng được lợi lạc, không còn bị đói khổ hành hạ mà nhẹ nhàng siêu thoát, chúng ta phải vận dụng Nghi thức Đàn Tràng để đạt đến năng lực vô biên từ Thân- Khẩu- Ý thanh tịnh, mới mong cứu giúp các Vong hồn.
Giải oan ( 解 冤 ), Giải là cởi bỏ, oan là oan nghiệp oán thù, Nghĩa là cởi bỏ sự níu kéo oán thù của nhau. Khi sống, ta vô tình hay hữu ý tạo ra hiểu lầm, hay vì u mê, khốn khổ, sân hận đưa đến oán ghét muốn trả thù làm hại nhau.v.v. Vì oán hận nhau mà ta cột ta với người khác bằng sợi dây oan nghiệt. Bởi vậy, chỉ có Năng lượng vô biên của Phật pháp được tạo ra bởi sức chú nguyện của chư Tăng trong Đàn Tràng mới mong cắt đứt sợi dây oan khiên nhiều đời nhiều kiếp.
Bạt độ ( 拔 度 ). Bạt là nhổ lên, độ là đi qua. Muốn thuyền qua được bờ bên kia, ta phải nhổ cái neo cắm, đã cột chặt chiếc thuyền vào bờ bên này. Ta muốn Hương linh của chúng ta thoát mình ra khỏi những ràng buộc trong oan khiên nghiệp chướng nhiều đời để lên được bến bờ giải thoát, ta phải giúp họ nhổ sạch gốc rễ lầm lỗi. Do tham lam, do sân hận, do si mê mà ta như cái cây, càng sống càng đâm rễ bám sâu vào mảnh đất của tội lỗi nghiệp chướng. Không nhờ Đàn Tràng với sức mạnh của công năng tập thể, ta không nhổ sạch được gốc rễ tội chướng.
.............
Thập loại cô hồn gồm có:
1. Thủ hộ quốc giới: là loại oan hồn vì nước bỏ mình.
2. Phụ tài khiếm mạng: là loại oan hồn chết vì trái chủ oan gia, trụy thai, hay sẩy thai.
3. Khinh bạc Tam Bảo: là loại oan hồn vì tạo nghiệp bất hiếu, phụ nghịch, vô đạo, khinh chê Tam Bảo.
4. Giang hà thủy nịch: là loại oan hồn chết sông, chết biển.
5. Biên địa tà kiến: là loại oan hồn ở nơi biên ải hẻo lánh xa xăm.
6. Ly hương khách địa: là loại oan hồn phiêu bạc tha hương, chết đường, chết bụi.
7. Phó hỏa đầu nhai: là loại oan hồn chết vì tự tử, trầm mình xuống sông, núi, chết đâm, chết chém..
8. Ngục tù trí mạng: là loại oan hồn chết vì bị tra tấn, khổ nhục trong lao tù.
9. Nô tì kết sử: là loại oan hồn chết vì bị đánh đập, hành hạ, đày đọa.
10. Manh lung ám á: là loại oan hồn lúc sống bị đui, què, câm, điếc, cô quả không ai chăm sóc.
....Xin mượn một số hình ảnh của: Chú Lê Đăng Mành (làng Văn Quỷ), hai Eng Nguyễn Hữu Bửu, Nguyễn Như Khoa (làng Hưng Nhơn)...chân thành cảm ơn!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét