Chủ Nhật, 11 tháng 12, 2011

LẦN THEO DẤU CHÂN NGƯỜI XƯA! (tt 3)

Bài viết của ông Nguyễn Thanh Xuân

(Hình từ nguồn http://nguyennhukhoa.blogspot.com)
Làng Hưng nhơn có tự bao giờ

Theo sử sách nước ta, trước năm 1975 nhân dân phía Bắc vào Nam có hai đợt lớn: Một là năm 1306 và hai là năm 1558.
Năm 1306, khi vua Chiêm thành là Chế Mân dâng hai châu Ô, Lý (nay là Quảng Trị và Thừa Thiên Huế) làm lễ vật dẫn cưới Huyền Trân Công chúa (con vua Trần Nhân Tông) thì nhân dân Thanh hoá, Nghệ an ồ ạt vào tiếp nhận. Đến năm 1558, khi Nguyễn Hoàng, tránh thế kìm kẹp của Trịnh Kiểm đã xin vào trấn thủ Thuận Hoá (Quảng trị-TTH) nhân dân Thanh hoá Nghệ an lại rầm rộ đi theo. Dĩ nhiên các năm sau đó nhân dân vẫn rải rác vào.
Tôi được đọc lời tựa trong tộc phã họ Nguyễn (Đức, Hữu, Như) họ xếp thứ tự khai canh thứ hai trong sáu họ của Làng. Lời tựa nói rõ: Ba ngài từ đất Hoan châu - Nghệ an theo Đoan Quận công Nguyễn Hoàng vào năm 1558 (Mậu Tý).
Tôi lại được đọc một cuốn sách nhan đề là Ô châu cận lục ghi chép đề cập đến nhiều phương diện liên quan như núi sông, sản vật, phong tục, thành quách, danh lam. phú thuế, quan chức, nhân vật…của dải đất miền trung đặc biệt là hai châu Ô, Lý.
Ô châu cận lục do Dương Văn An, Thượng thư triều Mạc Phúc Nguyên (1547-1553) biên soạn. Dương Văn An người xã Tuy lộc, huyện Lệ thuỷ, tỉnh Quảng bình. Năm 31 tuổi ông đỗ Đồng Tiến sĩ khoa Đinh Mùi – 1547. Năm 1553 ông dựa vào hai tập sách của hai bạn đòng hương (sử không ghi tên hai vị này -NTX) ông thu thập thêm những điều tai nghe mắt thấy, rồi bổ sung, hiệu đính, nhuận sắc… và lưu truyền lại ngày nay.
Ô châu cận lục gồm 6 quyển trong đó quyển ba nói về phân chia đơn vị hành chính. Hai châu Ô, Lý này (gọi Trị, Thiên cho dễ nhớ) chia ra 6 phủ huyện. Huyện Hải lăng là huyên duy nhất không thay đổi tên. Hải lăng có 49 xã gồm An thư (An thơ), Vĩnh hưng (Hưng nhơn) Văn quĩ, Câu nhi, Hà lộ (Hà lỗ)… cho đến xã thứ 49.
Một vấn đề tôi còn phân vân là trước 1553 đã có làng Hưng nhơn thế thì ba ngài lập họ Nguyễn không phải theo Nguyễn Hoàng vào năm 1558 được. Đề nghị bà con ai có thêm tín sử xin mách bảo.
Xin cám ơn
Kì sau :
Những tìm hiểu và suy nghĩ về Tầm vóc làng Hưng nhơn
Nguyễn Thanh Xuân
Sinh 06-6-1929
Hưng nhơn- Hải lăng
Địa chỉ : 487/2 đường Cổ nhuế Từ liêm Hà nội
: Email : nhuxuan29@gmail.com
Đt : 0986 465 346
Bài viết dự kiến phát biểu trong hội thảo
“TẦM VÓC LÀNG HƯNG NHƠN”
Những tìm hiểu và suy nghĩ về Tầm vóc làng Hưng nhơn
Tôi xin tham gia hai vấn đề:
1, Vóc dáng làng (địa lý)
2, Vóc dáng và tâm hồn người làng.
Tôi năm nay 83 tuổi, xa quê hơn nửa đời người và đi nhiều nơi, đến đâu tôi cũng khoe Làng Tôi là một trong những làng đẹp nhất bởi đường ngõ thẳng băng, gọn gàng như bức tranh. Tôi nhớ vào Tết 1956-1957 khi đang học ở trường Trung cấp Nông lâm Trung ương, trên tờ croki khổ 60 x 100 cm, tôi đã vẽ làng ta (khiêm tốn nói rằng) gần đúng 100% tỷ lệ cho từng ngõ, từng nhà…trong đó ghi tên chủ nhà và trong nhà có mấy người, Thú thật xóm ông DẠ (cầu Cừa) chỉ nhớ khoảng 70%. Cái may những năm đó tôi là Uỷ viên hội đồng nhân dân và Trưởng ban Thông tin tuyên truyền xã Hải Phong. xã Hải phong gồm 6 làng: Hà lỗ, Câu nhi, Văn quĩ, Hưng nhơn, An thơ và Phú kinh (hai xã Hải hoà và Hải tân gộp lại), Đoàn tập kết ra Bắc cuối tháng 7-1954 là Đoàn Hải phong do Nguyễn Ngôn người Hà lỗ- Trưởng đoàn), Cái chính là Làng dễ thấy dễ nhớ. Tiếc rằng năm tháng di chuyển nhiều nên thất lạc.
-*******--------*******-------*******-
Xưa nay hễ đến vùng đất mới người ta thường chọn : một là sườn đồi núi, hai là ven sông. Ông cha ta chọn ven sông: sông Ô lâu. Nói là ở ven sông nhưng làng ta lại không có sông (có, nhưng chỉ khoảng trên dưới 80 m), có người bảo vì đến sau. Sau trước chưa là vấn đề. Tôi nói đến cùng thời. Đến sau, sao lại có nhiều ruộng canh tác đến vậy. Bình quân đầu người có khi nhiều hơn các làng khác. Chuyện đến sau trươc ta sẽ tìm hiểu thêm.
Ít nhất cũng phải có một hoặc nhiều cuộc họp giửa những người làng giáp ranh nhau để giăng dây đóng cọc : Hưng nhơn-Văn quĩ-Hoà viện và Hưng nhơn- An thơ.
Làng ta được xác định: Đông giáp An thơ, tây giáp Văn quĩ, nam giáp Hoà viện và mấy chục mét của sông Ô lâu, bắc là đồng ruộng của làng ta.
Đứng trước vị trí này, các đại gia làng ta với tầm nhìn rộng, trình độ học vấn cao, đặc biệt kiến thức về thiết kế, kiến trúc và chắc có nhiều kinh nghiệm nên đã có khuôn viên làng như hiện nay.
Khuôn viên làng hình chữ nhật khoảng (400x1000)m ước bằng 1/10 ruộng canh tác-- diện tich ở / diện tích canh tác tỉ số1/9, có nghĩa là ở một làm chín. Thời gian đã xác định con số này là hợp lý. Chắc chắn ruộng sau Rôộc là đất dành cho dân cư khi con cháu đông lên.
Cái tầm nhìn như vậy liệu các chuyên gia, kĩ sư trưởng, kiến trúc sư ở thế kỷ 21 có mấy ai làm được?

Đi sâu vào thực tế:
Phía bắc tuy là ruộng của mình, nhưng bị mưa lũ, gió bão đe doạ nên đã đắp con đường Bạng cao rộng trồng cây làm bức tường luỹ che chắn (chọn trồng cây tre ngà ngà chủ yếu là cây mưng) tre là ngà cây to cao nhiều gai , rậm, chẳng ai dám chui vào bụi là ngà. Cây mưng chịu nước chịu hạn tốt, rễ to bám rộng, sâu, cành chắc dẻo, lá rậm quanh năm không những giao cho nó nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho dân má nó còn cung cấp thức ăn thú vi mỗi khi ra lộc non. Tôi còn nhớ câu ca dao quê ta: Đói nghèo rau má rau mưng/Chồng ăn thiếp nhịn xin đừng xa nhau.
Phía nam giáp Làng Hoà viện (chuyện cách sông và chỉ có một xóm của một làng của Thừa Thiên Huế giáp với hai làng của Quảng trị- sẽ tìm hiểu thêm sau) các vị đã cho đào một rãnh (hói không phải hói, mương chẳng phải mương) vì không lúc nào có nước, chiều rộng trên dưới một mét chắc là để xác định ranh giới, tiếp đó là một luỹ tre và cây bụi, cũng như đường Bạng nhưng không cần lớn và chắc như đường Bạng. Song song với nó, đào một con hói rộng trên dưới 10 mét chạy dọc từ sông Ô lâu lên đến giáp ranh giới làng Văn quĩ rồi chạy thẳng ra vừa tưới nước cho đồng ruộng vừa làm ranh giới giửa hai làng. Đất đào hói đem đắp con đường cái . Giữa con đường cái và bờ hói trồng một luỹ tre rợp bóng quanh năm. Dân làng lập từng bến để giặt giũ sinh hoạt. Có nước chảy quanh làng cây cối tốt tươi, khí hậu ôn hoà
Phía đông đất liền với làng An thơ, lúc đầu e cũng chỉ đóng cọc phân ranh giới, nhưng khi ngài em thứ ba (thành lập họ Nguyễn: Đức,Hữu,Như có ba anh em ruột) tham gia chinh chiến trở về, triều đình phong sắc tặngVõ Địch Đại Tướng Quân và dụ cho Làng lập miếu thờ, hằng năm đến ngày 16 tháng 6 Âm lịch làng tổ chức cúng giỗ. Tuân lệnh Triều đình, Làng lập miếu thờ ở cạnh biên giới làng An thơ và đặt tên miếu là Tả Thần hoàng, có nghĩa là ông thần trấn thủ đất ở phía tay trái. Nhân dân thường gọi là miếu Ông. Thế là “lãnh địa” làng Hưng nhơn chắc chắn biết chừng nào!
Khu vực dân cư được chia làm ba xóm: giáp với Văn quĩ là xóm Thượng đến Trung đến Hạ. À lại là chuyện lạ xuất hiện: dòng nước chảy từ hạ lên thượng. Có cái hay là bình độ đất phẳng như tờ giấy nên sáng nước từ sông chảy vào đồng ruộng, chiều nước chảy từ đồng ruộng ra sông. Phong thuỷ ấy tạo cho tâm hồn người dân sống ôn hoà, thuần phác, thuỷ chung.
Chia ba xóm, mỗi xóm có một đường kiệt (trôn) rộng chạy thẳng ra đồng ruộng và từ đầu làng đến cuối làng cứ cách nhau 25-30m có đường kiệt rộng chừng 3m, hai bên bố tri hai dãy nhà, ngõ thông ra đường kiệt. Mai đây làm biển các ngõ, và nhà thì ”ba mươi giây” là xong.
Viên đá bí tích ở Càng. Tôi chỉ nhìn được một lần vào ngày Tết Nhâm ngọ- 2002 khi cùng đoàn bô lão làng ra cúng đầu năm. Một viên đá, một bí sử. Ai biết được xin viết bài để nhân dân ta đời đời nhớ ơn.
Tôi lại chỉ được một lần lên Thượng nguyên cùng các vị bô lão và cán bộ, nhân dân lên cúng đầu năm vào tết Tân tỵ- 2001. Vùng đất này có lẽ lập sau, nhằm trợ giúp cho ngày ba tháng tám. Phải gian khổ lắm, bởi ở vùng độc canh lúa, ắt phải mang gạo lên rừng đổi lấy củ khoai củ sắn.
Nói vóc dáng làng mà không đề cập đầy đủ về Cái Bến Ngã Ba là một thiếu sót lớn. Bến Ngã Ba, cái bến huyền thoại, bởi đó là nơi hội tụ sắc thái tươi mát của cả Làng. Ngày nào cũng như ngày nào luôn nhộn nhịp trò chuyện râm ran, vui vẻ. Thực thế,ai đang có chuyện lăn tăn gì đó, hễ đến bến cái buồn tiêu tan, tâm hồn được hòa quyện với cái vẽ đẹp thuần khiết của trời mây sông nước tự lúc nào. Bến Ngã Ba, bến thiên nhiên mà như nhân tạo. Đáy cát trắng tinh không một tí bùn, chỗ cạn chỗ sâu: trẻ con vừa tắm vừa vọc cát, con trai đứng nước ngang hông khoe cái bộ ngực nở nang và đôi cánh tay hộ pháp; con gái cố nhấn chìm gần đến cổ thỉnh thoảng nhảy phóc lên cho tia nước phóng ánh hào quang. Cái gì đó khiến người con trai kịp thấy bạn mình quảy đôi thùng gánh nước, lẹ làng vào bờ và đôi tao gióng gọn gàng trên tay với một nụ cười rạng rỡ. Có những “chiếc” tàu ngầm mà cô gái nào đó la lên “chân mình như có bàn tay ai nhầm”… Bến Ngã Ba sáng từng đoàn người gánh nước giặt giũ. Bến Ngã Ba , trưa trâu mẹp; chiều đón khách theo đò dọc vào Huế…Chuyện Bến Ngã Ba làng ta e phải có hằng trăm bài viết cũng chưa đề cập hết. Với tôi nó là huyền thoại mãi mãi là huyền thoại.
Xin có lời đề nghị các bạn tham gia viết nhiều về vóc dáng Làng. Tôi tạm dừng ở đây. Có chỗ nào sai cho ý kiến, xin chân thành cám ơn

Kì sau tiếp ý kiến thứ 2 : Vóc dáng và tâm hồn người làng.

Như là bức thư ngỏ:
Đề nghị các bạn viết về các trò chơi con trẻ. Những năm yên bình trước 1945 chúng tôi thường chơi:
-Đá banh bưởi Ná bắn chim Thả diều
Nạp vụ Đánh căng cù Đánh đáo
Đánh bi Đá kiện, đá hai chân Trốn tìm
Con gái thì: Nhảy chồng chán… Ô ăn quan,
Kẹc khắc Vụ quay tôm cua
Tâp thể thì: Đánh bài tới , bài chòi Đánh cờ quân, kết, cờ chòi, tổ tôm
Các bài ca dao hò vè, nói lối…rất phong phú.
Công giáo có kiệu…có năm tổ chức đánh đu, những năm 1943-1944 có đóng kịch, múa…có mây môn chơi nữa tôi biết cách chơi nhưng quên tên.
Mỗi môn chơi đêu có quy định ”luật” cụ thể, nói chung rất hay, rất khó, rất hấp dẫn. rất bổ ich cho rèn luyện thể chất…
Thân ái chào bà con quê hương.
Nguyễn Thanh Xuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét