Thứ Ba, 15 tháng 5, 2012

LẦN THEO DẤU CHÂN NGƯỜI XƯA (tt 19)


Ông Xuân( áo vest) bút đàm cùng bạn thơ( nhà thư pháp  Lê Đăng Mành- Văn Quỹ) ảnh photo Khoa
SĨ PHU LÀNG HƯNG NHƠN

Ông Nguyễn Thanh Xuân ( Kĩ Tị 1929)
 Nguyên trưởng nhánh Nguyễn Như.
Cán bộ Việt Minh- Tập kết ra Bắc 1954- Kĩ sư.


   Lời tự bạch của ông:

"... Tên trong gia phả: Nguyễn Như Xuân, tên thường gọi: Nguyễn Thanh Xuân
Ngày tháng năm sinh: Gia phả: 06-6-Kĩ Tị (1929) Thường dùng: 06-6-1930; 06-6-1934. Số là, khi đi học (1936—7 tuổi), bố tôi đến khai với thầy giáo là đẻ ngày mồng sáu tháng sáu năm Kĩ tị Thầy giáo biết Kĩ tị là năm 1929 chứ thầy không có lịch vạn niên để truy ra ngày dương lịch. Đúng ra 06-6-1929 là ngày 12-7-1929. Tôi biết rằng từ ngày đi học đến nay đều ghi ngày tháng là 06-6, còn năm sinh thì: khi vào học Trường Trung cấp Nông lâm TƯ, có “bạn” rủ tôi ghi 1930 cho bằng tuổi nhau, còn ghi năm 1934 là bắt buộc ghi để được học chính qui (Qui định của Bộ Giáo dục lúc đó: học chính quy hệ Đại học trên 32 tuổi là không chấp nhận, lúc đó tôi đã ở tuổi (36). Kết luận v ề  ngày tháng, Tôi lấy ngày 06-6-1929 cho cuộc sống của mình.
    Ông đã trãi qua các thời kỳ chiến tranh đau thương nhất của quê hương! Nay tuổi cao, nhưng tin thần vẫn tráng kiện, minh mẫn. Tình yêu quê hương ngập tràn trong những bài viết, câu thơ của ông...Ông nhớ và viết lại những ký ức, kĩ niệm tuổi thơ, về tuổi trẻ căng tràn sức sống, nhiệt huyết cho lý tưởng, thật xúc tích, cô đọng, hấp dẫn lôi cuốn. Bức tranh về quê hương ngày ấy,dòng lịch sử ngày ấy, được ông đưa vào thật nhẹ nhàng, sống động...Xin mời đọc một trong số những ký ức ấy của ông!
              
 .....  Hai lần bị bắt

    Bị bắt lần thứ nhất
Lợi dụng mùa nước lũ, trong làng các hầm cá nhân ủng nước, ngoài cồn mả, ruộng cũng lênh láng nước và nước; Phía Việt Nam Cộng Hoà tổ chức những cuộc càn quy mô nhỏ, bất ngờ, nhằm đánh lạc hướng đề phòng của ta. Một hôm nghe tin địch về, tôi vội chạy ra đồng, băng qua mấy cồn mả, nhào xuống ruộng ngoài cồn Mồ Kiềm giữa. Đạn rơi lụp bụp bốn phía, tôi vơ đám cỏ lùng tấp lên mặt. Một chiếc nôốc trượt kéo bậc tung đám cỏ và chúng xum lại kéo tôi lên. Vừa đánh vừa cho thuyền rong vào đường bạng xóm Thượng; Tay bị trói chặt, một thằng quát:
" Lý trưởng mày đâu?"
"Làng tôi không có Hội tề"

"A! thằng ni nói giọng Việt cộng!"Đứa lấy khăn bịt miệng, đứa cởi ủng (giày) múc nước đổ vào miệng tôi. Bụng tôi căng lên. "Tôi không biết gì hết!"Đứa đá bên này, đứa đá bên kia, người tôi bụng căng cứng, tay chân mềm nhũn. "Dừng!" Một thằng hét, có tiếng còi tập trung. Chúng dong tôi đi theo đường trôôn xóm thượng theo dọc đường cái đi về, khi ngang qua nhà tôi, tôi cố ngẩng cao đầu và ngoảnh ra bờ hói, cố tránh sự khóc lóc của người nhà, sợ chúng phát hiện ra sẽ liên luỵ tức khắc. Đến cuối làng An Thơ chúng đưa sang Vĩnh An rồi đưa thẳng lên Mĩ Chánh, tống vào lô cốt. Nằm lô cốt, té ra chúng chỉ bắt được một mình tôi. Tôi nhớ chiều nay rất nhiều thanh niên sao chúng chẳng bắt ai. Lạ nhỉ! Sáng, chúng lôi lên tra khảo và hỏi lung tung. Tại sao mày chạy trốn. Tôi nói gọn: các ông đem súng bắn lung tung tôi sợ phải chạy. Thằng này lý sự. Đánh, đánh , đánh là không biết cũng phải biết mà khai. Cứ thế loanh quanh suốt buổi. Nghỉ, chiều làm tiếp…Sau ba bốn ngày hành hạ, tối đó một lính vác súng, một người quần áo trắng đến lô cốt gọi tôi lên có người gặp. Từ bộ ghế ngựa hai người đứng dậy ra nhìn tôi rồi kéo vào chỉ tôi ngồi cùng bức ngựa. Tôi rụt rè ngồi cạnh. Trên bức phản có mấy đĩa kẹo bánh và ấm nước. Nguyễn Văn Bình người Văn Quỷ , Nguyễn Văn Bá người Phú kinh, đã cùng tôi làm trong UBKCHC xã Hải Phong.  Tôi và Bá có bà con gần: mụ o tôi là mẹ Bá. Cuộc gặp, hai anh nói đơn giản là chúng ta biết nhau rồi, có chi mà phải nói nhiều; sang đây làm với nhau cho vui. Anh hiểu cho, tôi và Bình mới biết chiều nay, làm anh khổ. Để ghi cung của người bị bắt là tôi và Bình mà đã biết rồi thì cần chi phải hỏi nữa. Yên tâm, nó hạ giọng: “đừng làm khó cho tôi”. Hơi bất ngờ, tôi chưa nghỉ ra câu gì để nói, và xin để suy nghĩ. Trở lại lô cốt. Chắc cả hai đều làm Phòng Nhì cho Pháp rồi. Ngủ dậy thấy những người “chăm sóc” tôi mấy hôm rồi có dáng như gần gủi. Chiều vợ tôi lên, (sao đẹp thế), tôi suýt bật thành lời. Vợ đưa tôi tấm khăn tắm cỡ 80x140cm trắng toát, mịn màng tương phản với cảnh lem nhem trong lô cốt. Bọn lính nháy nhau ở tù mà sang thế. Vợ tôi lí nhí: "Em không mua, của ai thì anh biết rồi đó. Tuỳ anh! "Tôi định nói cầm về nhưng kịp ghìm lại, không nên căng thẳng. Có một sáng sau những ngày căng thẳng, mệt mỏi và nhàn rỗi, một người (mặc áo sơ mi trắng) rủ tôi  đi cùng anh ta ra chợ Mĩ Chánh dáng vui vẻ như bạn bè. Đi để làm gì, tôi cũng không hỏi.Tôi đi theo, chưa đến chợ tôi  dừng lại và nói không thích đi chợ, tôi chẳng cần gì! Tôi quay lại, người ấy nói như nài nĩ:" Thì đi chơi cho thoải mái, ngồi trong lô cốt không mệt à!"" Không tôi không đi!" Tôi quay về người ấy cũng miễn cưỡng trở lại.Tôi vào lô cốt tự hỏi, sao anh ta cho đi ra chổ đông người không có lính kèm, không trói tay, họ không sợ mình trốn à! Tôi chưa tìm được lời giải. Hình như mấy hôm nay tôi không được tắm, chiếc khăn trắng đã lem bẩn xấu xí, nhàu nát.    Chưa mờ sáng đã nghe tiếng gọi ra sắp hàng. Nhìn thấy toàn  là người làng Hưng nhơn, dể chừng hơn hai chục người. Tôi à lên ngạc nhiên : lần này nó tóm gọn tất cả thanh niên làng mình không sót một ai, không thấy ai bị trói và bị đánh đập như tuần trước bắt tôi. Chưa kịp hỏi nhau câu gì chúng đã lùa lên xe chở ra Quảng Trị rồi chở vào Huế. Chúng bắt ta đi lính cho chúng. Một ngày ở Văn thánh-Võ thánh. Mưa như trút nước, sông Hương nước đỏ ngầu. Hôm sau chúng chuyển về đồn Địa Linh (trong số bị bắt, hiện nay còn sống ở làng là Nguyễn Đức Hối, Nguyễn Hữu Tân) . Chỉ mấy hôm, chúng gọi tôi lên bảo là kiểm tra văn hoá để đi học sĩ quan. Đề ra bài văn là: Có bạn thân đang bên Cộng sản, hãy vì tình bạn mà khuyên bạn về với quốc gia với quốc trưởng Bảo Đại.               Không nhớ tôi viết thế nào mà hai hôm sau, tên Đồn trưởng gọi tôi lên văn phòng ông ta (chỉ mình ông với tôi). Ông ta cười nhẹ báo tin tôi được đi học, rồi gằm mặt xuống kể hai tội của  tôi. M    1 là nội dung bài văn sặc mùi cộng sản và 2 là... ông ta dừng lại hơn vài ba phút như cân nhắc điều sắp nói "Sao không báo với tôi mà viết truyền đơn dán lên khắp tường. Tù! Tù rục xương" Giọng trấn áp. Tôi thực sự hơi hoảng, nhưng kịp trấn tĩnh. "         "Tôi biết gì đâu mà dám lên với quan, họ dán giấy lên tường à!""       "Đừng ỡm ờ ! Dù có viết toàn chữ kiểu say rượu tôi vẫn khớp được chữ  anh (chữ bài thi và chữ dán trên tường)anh giúp tôi! Đừng làm tôi thất vọng "Giọng nó sao mềm thế, tôi đang là cái gì mà đồn trưởng lại bảo giúp nó. Tôi nghĩ. Tôi nhỏ nhẹ thăm dò: "Họ viết nói gì? ""Anh quên rồi hả : Ăn uống khổ, mất vệ sinh, lính mà đánh bạc suốt đêm v.v…Đúng như thế thật, nhưng không được nói ra."" Tôi  không biết gì đâu, tôi xin về trại."    Đêm, trằn trọc, mấy tiếng đi học, giúp nó, giọng mềm và  trấn áp của tên Đồn trưởng cứ chờn vờn không sao ngủ được. Sực nhớ câu quốc Trưởng Bảo Đại, cái không thiện chí với Bảo Đại trổi dậy; Lần đi đón tức chết đi được, miệng nói làm công dân hơn làm vua, làm cố vấn cho cụ Hồ rồi trốn và trở mặt làm Quốc Trưởng…Ai bầu…? Phải trốn, trốn bằng cách gì, tôi cũng không biết chỉ biết là phải trốn.    Tình cờ nghe chuyện mưu mẹo của một người hoãn bắt lính bằng cho tỏi vào nách rồi van la nóng rét. Kẹp nhiệt độ sẽ lên cao. Tôi liều bắt chước và Y tá đồn đang đêm cho tôi vào viện điều trị bởi sốt đột ngột. Người tôi nhẹ băng, thoải mái nhưng phải đắp chăn trùm kín mít và không ăn. Tự khổ sai khoảng dăm hôm, rồi  “đỡ dần ra”. Sau đó họ cho ra viện. Cầm tờ giấy ra viện mới biết  nơi đây là đồn Mang Cá. Giấy ghi nghỉ 5 ngày. Nhanh như chớp, đây là cơ hội cho ta trốn. Tôi ghi thêm sau chữ nghỉ 5 ngày: Ở nhà tại làng Ưu Điềm.. Đã liều là liều. Tôi đi chuyến xe chiều Huế- Ưu Điềm. Đến căn cứ Mĩ Chánh, dừng xe kiểm soát. Tay tôi chìa giấy nhưng vẫn cầm chặt và đọc luôn nghỉ 5 ngày tại Ưu Điềm bằng tiếng Pháp. Tên lính vội đẩy tay tôi và cả giấy, miệng nói được rồi, được rồi. Nhẹ hẳn người nhưng không dám thở. Đến giờ này tôi như đang ngồi trên đống lửa: không thể xuống chợ Ưu điềm được vì đó là đồn lính vả lại nhiều người biết tôi. Có thể do mừng mà sinh chuyện, lòng tự nhủ. Qua khỏi đồn Câu Nhi Hoà, phải xuống! Vào bất cứ nhà nào phía bờ sông, đêm lội sông sang Câu Nhi, hoặc băng đồng sang thôn Chùa, thôn Niêm, làng Ưu Điềm. Xuống xe, trời chạng vạng, rẽ đường cái bước vào ngõ như vào nhà mình, trong nhà có người hốt hoảng chạy ra. "Tôi trốn lính. Tôi là con ông cửu Liên, thợ mộc làng Hưng nhơn." Ở gần đồn, vào nhà, tiếng nói âm ấm trong nhà vọng ra" Tốt rồi!" Bác chủ nhà lại tiếp: "Tôi về làm ruộng với gia đình mình nhiều, tôi cũng biết chú nhưng chú làm việc mô trên tỉnh trên huyện chi đó nên không gặp mấy."Quay sang sai con gái nấu cơm nóng cho chú ăn ấm bụng. Bây giờ tôi mới thấy bụng mình đói quặn. Thay bộ áo quần nông dân, 3 người đưa tôi lên thôn Chùa làng Ưu Điềm quê vợ tôi.    Chặng đường quen mà lạ, lạ mà thân thương: Ưu điềm- Thượng nguyên-Trầm-Khe mương-Hải Đạo-Hưng Nhơn-Hải Phong cho đến ngày tập kết ra Bắc. Đoàn của xã Hải Phong do Nguyễn Ngôn (người Hà Lỗ) làm trưởng đoàn, Hưng Nhơn chỉ một mình tôi đi. Ngày 28-7-1954, đưa hai ngón tay giơ lên  biểu tượng của xa nhà 2 năm, thế mà rồi 21 năm biền biệt và vẫn biền biệt cho đến khi tôi ngồi viết những dòng này!
--**--**--**--**--**--   
Năm 1973, nhân đọc một bài viết của nhà văn miền Nam  gửi ra nói về một trong những chuyện cán bộ cốt cán của ta theo về phía Mĩ Nguỵ, có trường hợp bị trở thành tay sai đắc lực cho nó. Chuyện rằng cán bộ ta bị bắt, có người chúng cho ăn uống tử tế, tự do đi lại (tất nhiên có người theo dõi), mỗi ngày mỗi được ăn uống tốt hơn, cho đi chơi đến chổ đông người với thái độ thân thiện, thời gian sau, nó thấy “cán bộ ta” đã mê cảnh ăn chơi và đặc biệt bị dư luận bà con xôn xao rằng đã theo giặc.Chúng hỏi: "Anh bây giờ đã muốn về nhà chưa? muốn về thì cho về, như không muốn về thì ở lại với chúng tôi; Chỉ cần kí vào giấy nầy: ĐƠN CHIÊU HỒI.."    Bất giác tôi rùng mình nhớ trường hợp  mình bị bắt, có lẽ cũng theo dạng nầy. Ba ngày sau khi tôi trốn, ở làng đã biết tôi trốn do người Phú Kinh đưa tin từ Huế ra. Những người làng bị bắt đi lính đang ở đồn Địa Linh (Huế) tưởng tôi còn nằm viện chưa về chứ không biết tôi đã trốn. Năm 2004 chú Tân (đã nói ở trên) hỏi tôi: "Chớ trốn khi mô và đi đường mô mà tài rứa!"   
Nếu những ngày bị bắt ở Mĩ Chánh, chỉ riêng việc tôi ra chợ với “phòng nhì” thì sự việc sẽ khác. Chợ Mĩ Chánh sáng nay có chuyện gì khác, tức khắc chợ chiều Ưu Điềm  biết hết;  Làng tôi, làng Ưu Điềm đi chợ mua bán đông lắm, mà tôi lại nhiều người biết.   Tôi sẽ không dám vào xóm Câu Nhi Hoà cũng không dám đến thôn Niêm, thôn Chùa  nếu tôi đi chợ Mĩ chánh với chúng. Họ sẽ trói gô tôi và “đem trả lại đồn Mĩ chánh”. Tôi biết họ là những người trung thành tuyệt đối với bên ta (Việt minh). Cũng may cho tôi và cũng đúng với tâm trạng buổi đầu bước vào đời.
                                                   o0o
 Bị bắt lần thứ hai   
 Một tháng đi bộ, nơi dừng chân, để chỉnh huấn là xã Nam Bình, Nam Đàn, Nghệ An. Sau chỉnh huấn chúng tôi được về nghỉ ngơi tại xã Xuân...?Hưng nguyên. Con đê 42 vỡ, nhân dân vô cùng cực khổ. Nhiều gia đình đi ăn xin. Chúng tôi chỉ ngồi chơi. Tôi rủ Nguyễn Ngọc Tân (biệt động Huế) lên gặp cán bộ hỏi và được trả lời: Các anh thuộc diện đợi cấp trên bố trí công tác. Ở đây chỉ bố trí việc cho lao động chân tay. Hai đứa bấm tay nhau, việc ấy chúng tôi làm có được không, ở rỗi buồn quá. Một anh bảo: các anh muốn làm phải viết đơn tự nguyện(!) Tự nguyện thì có chi mà không viết được. Thế là chúng tôi về đơn vị có tên là đại đôi 313 công trường nông giang bắc Nghệ an. Nhớ lại mới thấy mình “oai” là có đơn tự nguyện mới trở thành công nhân, bởi sau đó khoảng một tháng  đơn vị 313 rồi 314, 315, 316 v.v…những người trước đã làm ở Ty Thông tin tuyên truyền Quảng Trị và nhiều cán bộ cấp tỉnh huyện, các anh chị em gánh vũ khí quân lương rồi những anh chị em vượt tuyến ra sau tập kết, ồ ạt vào làm công nhân mà không cần đơn tự nguyện( hi).
    Những ngày hàn gắn đê 42 và xây cống Vũng Bùn (cách ba ra Đô lương) 13km, chủ yếu là gánh đất, đập đá dăm để đúc ống cống. Tôi và Nguyễn Khánh Xuân (người làng Văn Quỹ) xuất sắc nhất. Đập đá dăm cỡ 2x2 cm,  năng suất trên dưới 2m3 / ngày.  Định mức 0,8 m3, có người chỉ đạt 0,4~0,6 m3. Ngoài lao động ở công trường, về nhà làm công tác dân vận như quét nhà, sân, đập ruồi, múc nước giếng…Tất tất đều phải báo  cụ thể bằng số lượng, như hôm nay anh A, cô B…đập mấy con ruồi, quét mấy mét dài đường, múc mấy thùng nước, nói chuyện vui vẽ với gia đình (dân vận) mấy phút! (hi) Trên cơ sở đó mà bình: Giỏi, khá, kém/ ngày rồi tuần rồi tháng. Cứ thế, cứ thế, không biết tay mình chai dày mấy lớp, vai mình u lên mấy phân. Sáng dậy rã rời người nhưng không khí chung như không cho phép ai nghĩ khác,vì trước mắt khối lượng đá, khối lượng đất, ngày này trong tổ phải đạt và phải vượt; còn phải tự sáng tác hò lơ, hò lờ được mấy câu v.v… Từ chổ gánh bằng hai tay, 25-30 kg lên 50-60 kg, và có bạn thường xuyên 80 kg/gánh. Phong trào thi đua khiến cô gái 42kg thể trọng mà vác 2 bao xi măng=100kg đi ngon lành.     Chúng tôi ở nhà dân, phong trào cải cách ruộng đất đang rầm rộ(1955), tối phải đi dự đấu tố địa chủ, tuy không biết gì cũng phải đi, nghe nông dân hô đá đảo cũng đá đảo theo!(hi).
 Ở đơn vị 313 , tôi được mời dự cuộc họp (với chức danh là cán bộ dạy bổ túc văn hoá).  Bí thư đảng : Phấn, Đại đội trướng:Thiệp báo cáo về chỉ thị chấn chỉnh tổ chức trong cơ quan nhà nước song song với CCRĐ ở nông thôn của Liên khu uỷ. Chỉ tiêu đưa ra là phải có 5% thành phần xấu (?) hi.    Trong những ngày ấy, không khí bàn tán chuyện thành phần ở nông thôn, thành phần tiểu tư sản, tư sản trong cơ quan inh ỏi cả lên.     Tôi nói nhà ông Hợp nơi tôi ở, ông ấy nghèo thế mà địa chủ gì, qui thế là sai, bởi họ ăn cơm độn cà pháo đắng nghét, áo không có chiếc lành. Trong đơn vị xôn xao tổ X đưa quang gánh xuống bến ngâm để cho trôi ra giữa ao làm mất thì giờ "vàng ngọc".Tôi cho rằng dân xuống bến giặt giũ, chao chọng rồi trôi, trôi ra thì vớt có gì mà quan trọng sinh ra to tiếng tranh cãi. Đêm 20-5-1955, có một cuộc họp toàn Đại đội đột xuất. Trời tối đen như mực, đến nơi thấy trên tấm băng rôn nền đỏ:
 "Chỉnh đốn Tổ chức, kiên quyết đấu tranh chống những phần tử phản động" Chủ toạ, thư ký vào vị trí, vài lời ngắn gọn, tiếng chủ toạ:
" Nguyễn Thanh Xuân lên bục, Nguyễn Thanh Xuân lên bục, nghe rỏ không."
Tôi bàng hoàng
" Chuyện gì vậy?" Cả hội trường im phăng phắc. Tiếng chủ toạ lại vang lên:
" NTX lâu nay đội lốt một thầy dạy bổ túc văn hoá đơn vị ta ,dạy giỏi để gây cảm tình trong chúng ta nhưng bên trong hết sức phản động. Xin mời ai có oan thì lên đấu" (Sic)
Một chị to béo nặng nề bước lên. Chị ni thì sợ mình một phép và luôn có cảm tình (tôi nghỉ). Tôi lắng nghe chị nói gì?
 "Ai đời dạy tui, ra bài hỏi: Vì sao không thở là chết. Câu ni dễ ợt, tui trả lời là do đế quốc phong kiến đè bẹp nên chết. Điểm 10 là cái chắc, rứa mà khi trả bài tui được điểm 1. Rứa là bao che cho đế quốc phong kiến, đúng là phản động" Cánh tay khác giơ lên, ra là O Hiền:
"Anh ta trang hoàng đám cưới của tui mà không tích cực"
Chủ toạ hét lên : "Chỉnh đốn, không được gọi người bị đấu là anh"
Cô ta ờ ờ khi đã về chổ của mình. Nhiều bạn thân với tôi, sợ liên luỵ và không có gì để nói, buộc lòng chạy loanh quanh bên ni hội trường qua bên tê hội trường và lẫm bẩm: "Có chi thì nói lên cho rồi, nói lên cho rồi" Hội trường lặng đi chốc lát, thằng R cúi mặt lấm lét đi lên không nhìn ai:
"Tui được giao gác cổng để trong nhà kết nạp đảng. Đảng quốc quốc gì đó. Khi ai đến ngoài người đã dặn thì hú lên để trong trốn"
 Chủ toạ bí thư Phấn nói:
 "Nguyễn Thanh Xuân có nói gì không? "
Tôi nói:
 "Chuyện ra câu hỏi và cho điểm là dúng. Trang hoàng đám cưới cũng đúng, còn cho người gác để kết nạp là bịa."
 Chủ toạ cắt ngang:
"Không được phép nói quần chúng đấu tranh là bịa!(hi)"
 Sang bàn thư kí để ký tên. Tôi không ký; Bốn năm người bóp tay tôi ngoặc vào biên bản. Sáu bảy người, trước một ngọn đuốc, sau một ngọn đuốc dẫn tôi về nhà ông Hợp (nơi tôi ở) tịch thu toàn bộ những gì tôi có trong đó có tấm hình mẹ tôi.Tấm hình mẹ tôi tách từ tấm căn cước trao cho tôi khi đi tập kết. Tôi xin mãi họ vẫn không cho. Còn lại cho tôi hai bộ áo quần và cái bàn chải đánh răng. Còn mấy đồng bạc họ cũng lấy luôn. Đêm đó tôi nằm, hai tay bị trói vào thành giường. Tiếp những đêm sau cũng trói như vậy. Cái may cho tôi là những người đi kiểm tra, vào chổ tôi nằm nói lớn :"Để tau xem những múi buộc đã chặt chưa!"Rồi lén chuồi cho tôi mấy củ khoai khi thì vài trái chuối, và nới dây trói có khi tháo hay buộc hờ. Tôi tin là họ thương tôi vì hầu hết là bạn là học bổ túc tôi dạy.    Sau thời gian tù tội căng thẳng, họ không tìm ra điều gì như hôm đấu tố. Họ trả tôi trở lại làm việc như ban đầu với cơ chế giam lỏng (vẫn đi làm như công nhân). Thường xuyên có hai người giám sát. Đi đâu, kể cả đi vệ sinh cũng phải xin, họ ngúc mới được đi.Nói đâu hết chuyện này, bạn cùng bị đấu như tôi cũng nhiều (vì 5% của cả mấy đại đội) có đứa uống nước vôi tự tử, có đứa không đi làm bị trói  chân tay khiêng đi như khiêng lợn ra hiện trường phơi nắng v.v…Một hôm cả BT Phấn, Đại đội trưởng Thiệp đến gặp tôi vừa an ủi, vừa thăm dò vừa trấn áp. Phần tôi tôi tự biết không có gì sai nên rất bình tĩnh tự tin, hơn nữa (tôi và Nguyễn Khánh Xuân) có danh sách bầu chiến sĩ thi đua (năng suất 2 m3 đá dăm/ngày)Tôi không có gì lo lắng sợ sệt, tôi nói:"Xin các anh về đi, tôi biết các anh cũng chỉ là người nói theo. Các anh không nói theo là mất chức. Tôi không có gì để nói với các anh. Nếu còn sống các anh sẽ biết sai. Lúc đó ta gặp nhau vui vẽ."     Đơn vị di chuyển nhiều nơi, đến đâu tôi cũng hỏi tìm người có sách để mượn đọc. Tôi ham đọc lắm, mượn được quyển nào là tôi nghiền ngẫm, có quyển  tôi còn nhớ đến hôm nay.      Đến tháng 8-1956, một sự tình cờ (hay là có chủ ý!)  ngồi nói chuyện với chị có tên là Sáu (chị người Nam bộ hơn tôi khoảng mươi tuổi) đột ngột chị nói: 
"Tôi thấy cậu thích học thích đọc sách, có một lớp của nhà nước bổ túc văn hoá cho con em miền Nam, nếu học tốt sẽ đi học trường Trung cấp Nông lâm Trung ương Hà nội. Nhưng bây giờ phải kiểm tra văn hoá đã"
Tôi mừng quá nhưng nghỉ là chị này không biết làm việc chi ở Nông trường mà biết rạch ròi chủ trương của nhà nước nhưng lại không biết mình đang bị quản thúc. Mình làm sao mà đi học được. Do dự một hồi:
" Chị ơi, nghe chị nói em thích quá, nhưng ai cho em đi"
Không hiểu sao tôi xưng em với chị một cách gần gủi, mà trước đây tôi chưa hề làm thế bao giờ. Chị cười, nét cười của chị làm tôi xúc động. Chị nói em nghe:
"Chị là Đảng uỷ viên của Đảng bộ Nông trường, trường hợp của em chị biết và đã có danh sách sửa sai, nhưng chưa có nghị quyết gửi về nên chưa được công khai. Chị nói với em thôi em chưa được cho ai biết. Có đi thi không, trình độ lớp 5 với cậu thì có gì mà lo. Cậu dạy giỏi học trò rất mê cậu" 
Chị gọi tôi bằng cậu như em ruột chị vậy.Tôi có cảm tưởng thế. (1)   Tôi mừng:
" Chị ghi cho em đi thi, nếu được thi, em sẽ cố gắng"
Thế là thi đạt điểm ở Nông trường, rồi tôi và Khánh Xuân ra Hà nội thi lần nữa. Cả hai đều đỗ và được nhận vào học Bổ túc văn hoá, niên khoá 1956-1957 để có trình độ 7/10. Khi thi đỗ lớp 7 mới được thi vào hệ chính quy học trường Trung cấp Nông lâm Trung ương.    Niên khoá 1957-1958, năm sửa sai nên lấy lượng học sinh rất ít. 2.800 thí sinh dự tuyển mà chỉ tiêu lấy vào chưa đến 400. Riêng lớp bổ túc cho con em miền Nam là 150 học sinh chỉ đậu có 10  trong đó có Khánh Xuân và tôi.    Đang học thì tháng giêng năm 1957 tôi có giấy mời về Khu 4 để dự lễ sửa sai cho những người bị nghi oan. Tôi đang học không về dự. UBKCHC liên khu 4 gửi ra cho tôi "Quyết nghị sửa sai" và nhiều thư để tôi gửi bạn bè nhằm chứng tỏ lâu nay nhà nước không cho gửi. Quyết nghị ghi ngày 5-1-1957 có câu:
"Nay phục hồi danh dự công quyền và các quyền lợi chính trị kinh tế v.v.. cho ông Nguyễn Thanh Xuân"
Một văn bản khác đề ngày 22-2-1957 có câu:
"...Các thiệt thòi về kinh tế đồng chí kê khai và báo cáo cho cơ quan đang công tác xét và giải quyết."
Thực chất là không được trả gì hết(sic). Tấm ảnh mẹ tôi trao cho ngày đi tập kết cũng mất từ đó (những văn bản trích ghi trên hiện nay tôi còn giữ)Thế là sau 3 năm chính quy,tôi có lưu lại bài thơ,ghi tháng 10-1960. 
Trường giữa thủ đô
Nông lâm Trung cấp Trung ương
Sáng rực lòng ta mong ước
Tay chai chân trần tiến bước
Sách đời đã đổi sang trang
Ba năm dùi mài kiến thức
\Vở bài không chút đơn sai
Dẹp lòng đêm Nam ngày Bắc
Ngày mai tất cả ngày mai…
Cầm bằng tốt nghiệp trong tay
Hai năm! Chưa dễ , còn dài
Việc gì ta nào quản ngại
Quê hương nặng gánh hai vai.                        …………………………………..     
(1) tháng 1-57 tôi gửi thư cho chị Sáu ở Nông trường nhưng được trả lời là chị về công tác ở Tỉnh, chưa có địa chỉ. Rồi mất liên lạc luôn. Tôi thật có lỗi. (NTX)
Xin cảm ơn, chúc ông nhiều sức khỏe!

3 nhận xét:

  1. Xin cám ơn cụ Nguyễn Thanh Xuân, cháu rất xúc động khi đọc phần "Bị bắt lần thứ hai". Xúc động nhất cụ nói về mẹ rất ít nhưng tình cảm của cụ với mẹ như cả một bầu trời, "...tịch thu toàn bộ những gì tôi có trong đó có tấm hình mẹ tôi.Tấm hình mẹ tôi tách từ tấm căn cước trao cho tôi khi đi tập kết. Tôi xin mãi họ vẫn không cho". Nếu cụ cho phép cháu được mạo muội phát biểu ý kiến, bày tỏ lòng mình, cháu xin thưa đó chính là điểm nhấn của lời tự bạch, điểm nhấn của cuộc đời.

    Kính

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Cảm ơn đã quan tâm theo dõi! Mong được trao đổi nhiều!

      Xóa
    2. xuan nguyen nhuxuan29@gmail.com
      17:23 (49 phút trước)

      tới tôi
      Nhờ DK chuyển lời cám ơn của tôi đến người ẩn dành đã dành
      cho tôi những lời thương cảm chân thành. Lần nữa xin cám ơn!
      Theo tôi, bạn ẩn danh thông cảm! Muốn biết "trích ngang của
      bạn" để ta vui vẻ v.v...Gọi tôi bằng Cụ, chắc bạn nhỏ tuổi
      hơn tôi. Chúng ta là bạn vong niên. 84 tuổi nhưng tôi đang ham
      chơi, ham học trẻ, .tuy quĩ thời gian còn ...dài dài...
      Thanh Xuân

      Xóa