Làng quê xa (6)
Xin được giới thiệu tập sách Ông Nguyễn Như Xuân viết về quê hương
NHỚ LÀNG (KÌ IV)
2- Vóc dáng tâm hồn
Nhìn cơ ngơi làng Hưng Nhơn, người ta dễ nhận ra người khai sinh và hậu duệ của họ có tầm nhìn rộng và khoáng đạt.
Không phải một sớm một chiều mà đã trải qua 500 năm gây dựng, từ một vùng hoang vu đầy lau sậy, mênh mông nước và nước, nhờ có những tâm hồn nhạy cảm, biết dung hoà trong những diễn biến phức tạp của cuộc sống mới có được bức tranh quê hương hài hoà và lộng lẫy như hôm nay.
Bước vào đầu làng:
- Một nhà thờ, thờ các vị khai canh Làng
- Một ngôi chùa thờ Phật
- Một nhà thờ Thiên Chúa giáo
- Một nhà thờ Văn Thánh (còn phế tích)
Dọc con đường cái thẳng tắp cứ cách 30 – 50m ưu tiên đặt địa điểm làm nhà thờ của các Họ, các Nhánh.
Đến cuối làng:
Miếu thờ Ngài Nguyễn Quí Công Võ Địch Đại Tướng Quân. Ngài là một trong ba anh em khai canh họ Nguyễn, họ xếp thứ hai khai canh Làng,
Làng có một miếu thờ ngài Trần Quí Công (tục xưng Nghè Đèn), nhưng nay không còn (tôi chưa rỏ nguyên nhân)
Phía sau, nơi đắp hậu bạng làm luỹ “cây” kiên cố chống bão lũ bảo vệ cho khu dân cư. Đồng thời ở đó, xây một nơi thờ vong linh các cô hồn và cũng là tổ ấm của họ, có tên là Âm Hồn nhìn ra một vùng Nghĩa Địa của Làng để cô hồn thuận tiện :
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi ẵm trẻ dắt già
…………………
(Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du)
Nhà Bia ở Âm hồn
Nhìn chung bức tranh làng ta thực hài hoà: ĐỜI- ĐẠO-ÂM-DƯƠNG một mối tương quan cộng đồng khăng khít, nương tựa nhau để vươn lên trong cuộc sống. Thât đáng tự hào!.
Có được như trên, trước hết ta thấy nét gốc văn hiến đã có khi các ngài từ đất Hoan Châu - Nghệ an vào lập làng và các hậu duệ điều chỉnh trong quá trinh sinh sống mà trong đó chính là các sĩ phu như ngài Võ Địch Đại tướng Quân, Võ tướng phò tá Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng năm 1558; ngài Trần Quí Công :Tục xưng "Nghè Đèn" Thí Trung Văn Thức Hàn Lâm năm Ất Mùi – 1715; Ngài Thượng Thư Tuyết Quang Hầu: Nguyễn Đức Mậu (1); Ngài Thượng Thư Chính Trực Hầu: Nguyễn Đức Kỳ (2); ngài Bố chánh Nguyễn Đức Trứ; ngài Viên ngoại lang Nguyễn Đức Giản; ngài Tri phủ Nguyễn Đức Dĩnh…và bao thế hệ nho sinh, bao thế hệ chức sắc trong làng, đã để lại một bề dày trí tuệ, giữ nét đẹp văn hoá cộng đồng quê hương đáng khâm phục và tự hào với nhận định của Thượng Thư Dương Văn An cách đây hơn 500 năm trong Ô Châu Cận lục “Vĩnh Hưng có chí chuộng văn”.“Giáo hóa thịnh hoài!”
(1) (2) Dân làng gọi hai ngài là già Cha và già Ông để nhớ ơn hai Ngài đã nuôi dân làng Vĩnh Hưng (Hưng Nhơn) thoát khỏi nạn đói khủng khiếp năm Giáp Ngọ 1774.
Lăng mộ Ngài Thượng Tiên hiền Khai canh Làng, Họ LÊ VĂN (Pho to Khoa)
Tôi lấy một việc làm rất nhạy cảm của các cụ Nho sinh, bô lão và dân làng:
Cuộc CM năm 1945, nhà nước VNDCCH dùng chữ Quốc ngữ làm ngôn ngữ giao dịch trong nước cũng như quỗc tế. Ngay sau đó, các Cụ đã lập tức dịch các giấy tờ trước đây là chữ Hán sang chữ Quốc ngữ, chú trọng trước tiên là Tộc phả, gia phả . Tôi thiết nghỉ nếu không có trình độ Nho học cao như các ông Nguyễn Đức Hà, Nguyễn Đức Ngạn, Lê Văn Phổ, Lê Ngọc Ký, Nguyễn Đức Thâm, Trần Văn Châm… và những học trò học giỏi Quốc ngữ như Nguyễn Đức Phụng (Trịnh) Nguyễn Hữu Quế, Nguyễn Như Lãm, Nguyễn Đức Dương, Lê Văn Phố…Tập thể đó với tri thức phong phú, thông minh và nhạy bén đã khẩn trương dịch thuật chính xác chép ra chữ quốc ngữ rất tỉ mỉ và chu đáo trong năm 1946. Chủ biên là Nguyễn Đức Hà.
Bô lão làng Hưng Nhơn
Cuối năm 1946 mặt trân Huế vỡ và chiến tranh liên miên, nếu không làm xong trong năm 1946 liệu biết khi nào làm được?. Nói để biết thôi:Hiện nay một số làng đang nhờ (thuê) Viện Hán Nôm làm việc này, bởi các cụ Nho xưa đã qui tiên cả rồi
Đối với vùng ta, khi tôi ở ngoài Bắc được biết là “vành đai trắng”, nghĩa là không một tấc đất không bị cày xới, không một ngôi nhà còn nguyên vẹn, mà thực tế phía VNCH đã làm như vậy, thêm vào lũ lụt triền miên thế nhưng các bô lão cùng con cháu một lòng vì công đức cao dày của tiên tổ mà đã tìm cách cất dấu, di chuyển, bảo quản còn nguyên vẹn các tập gia phả, tộc phả và các sắc tặng của Triều đinh của các ngài khai canh và các vị có công trạng với quốc gia.
Những cô gái làng nết na sáng, đẹp lấy chồng trong làng hay lấy chồng làng khác sao mà giống các cô gái làng khác đến làm dâu làng mình. Dáng e thẹn rụt rè ban đầu, khi đã có con và nhất là khi có cháu, họ nhảy lên làm chủ gia đình một cách lặng lẽ, nội trị ngoại giao rất sành sỏi…Phải chăng nhờ vậy mà người đàn ông làng Hưng Nhơn và người đàn ông làng khác lấy vợ người Hưng Nhơn đều có dáng sang (giàu nhờ bạn sang nhờ vợ). Ví dụ như các mụ: mụ Ấm Năm người làng lấy chồng Phước Tích, mụ cửu Liên người Hoà Viện lấy chồng Hưng Nhơn và mụ Thừa, mụ Lý Thuỵ, mụ Lý Hà, mụ Thất Chiểu, mụ Thất Cẩn, mụ Cửu Kiến… nhiều thật là nhiều không kể hết. Các Mụ vừa sắc sảo vừa đôn hậu.
. Chúng ta thấy rất rỏ hầu hết các chị có chồng đi tập kết ngoài Bắc đều kiên trinh ở vậy chờ chồng, nuôi con. Thương quá, những người chưa có con cũng đợi chồng không tin tức suốt cả hai mươi mốt năm tuổi trẻ. Biết lấy gì tri ân những tấm lòng vàng ấy hỡi Quê Hương !?.
Nói gì thì nói, chiến tranh là đau thương, là nát tan, nhất là vành đai trắng quê ta. Ý thức rằng mất mát là không tránh khỏi. Sau khi thống nhất đất nước, với tâm hồn nhạy cảm và cần cù có sẵn, bà con đã đồng cam cọng khổ vượt qua những năm thiếu thốn nhất, nhanh chóng ổn định, xoá nghèo và thực sự đang giàu lên! Đang giàu lên! Phải không quê ta ơi!.
Người ở làng thì ngày ngày trực tiếp xây dựng xóm làng, người đi xa cũng luôn nhớ về quê hương (ly quê bất ly tổ) tùy sức mình đóng góp cho Nhánh cho Họ cho Làng góp phần làm cho quê nhà ngày càng đẹp đẽ và trù phú. Phải nói là rất nhiều, người ở nước ngoài, người ở trong nước tiêu biểu là Lê Bá Truyền (Lê Văn 1). Tất cả, tất cả vì QUÊ HƯƠNG THÂN YÊU.
Ta lại xem: Hưng Nhơn, phía đầu làng trước đã có cầu sắt nhưng bây giờ “chê” nhỏ, bắc cầu mới chịu trọng tải trên vài chục tấn, cuối làng một cầu bê tông vĩnh cữu bắc qua bờ Nam (Thừa Thiên Huế) Không dám khoe với thành thị, khiêm tốn rằng: có đường bê tông 4,5 m láng bóng, thẳng tắp đi sâu vào từng ngõ, từng nhà; có trường cao tầng thu dụng hết con em đến độ tuổi đi học; có nước sạch nông thôn; có hố xí tự hoại; đặc biệt có chợ đông đúc, hàng hoá thoải mái mua sắm, nhất là thức ăn : ăn sáng mua sáng, ăn chiều mua chiều, không dùng thức ăn hâm lại (tuy là chợ Hưng Nhơn, Hải Hoà nhưng chung cho cả bờ Nam vùng Phong Điền, Thừa thiên Huế nên đông lắm, đông lắm).
Các tổ chức Chính quyền và Đoàn thể vững mạnh, các bô lão nhàn nhã trong y phục truyền thống chăm lo hương khói đền thờ miếu mạo, thiện nam tín nữ cũng như các tín đồ Thiên chúa giáo vui vẻ đến Chùa, đến Nhà thờ niệm tâm tín ngưỡng. Thật là tự do thoải mái và yên bình trong tâm tưởng.
Con em ở làng như Nguyễn Như Khoa, Nguyễn Thị Thi Thơ và Lê Ngọc Quốc người làng đang cư trú ở thành phố Biên Hoà Đồng Nai có blogspot thường xuyên và kịp thời đưa hình ảnh và bài viết về quê hương, các sĩ phu, các ngôi mộ cổ v.v… người làng dù ở xa đều được biết những đóng góp của tiền nhân, những đổi thay của làng mình, để phấn khởi và tự hào. Phần tôi rất hoan nghênh và cám ơn ba bạn, vì tuy ở xa nhưng biết ngày lễ Thanh Minh, ngày khánh thành cổng chùa, ngày Thanh niên tình nguyện đi Hải khê, thanh niên tình nguyện ra đồng ruộng, xây trường Tiểu học mới 600m2, ngày VTV do MC Quyền Linh tổ chức “Vượt lên chính mình” vân vân và vân vân.
Tôi khoe những hình ảnh quê nhà với các bạn đến chơi, họ thừa nhận: Hơn ở đây…hơn ở đây!
Bất giác: “Thế mà mình phải xa quê!”./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét