Thứ Tư, 28 tháng 11, 2012

Làng quê xa! (9)

Vĩnh Hưng được chuyển đổi sang Hưng Nhơn từ khi nào?

Vụng voi,  làng Hưng Nhơn- ảnh photo Khoa


Theo Ô Châu Cận Lục- Dương Văn An hiệu đính năm 1553 thì phía bờ bắc Ô Lâu khi ấy đã có các làng : Hà Lộ, Câu Nhi, Văn Quỹ, Vĩnh Hưng và An Thơ; và suốt 459 năm trôi qua (từ 1553 > 2012) trong số các làng trên chỉ có riêng làng Vĩnh Hưng thay đổi tên mà ngày nay là làng Hưng Nhơn. Các ghi chép của một số gia phả trong làng, truyền khẩu trong gia tộc, các bài nghiên cứu...tựu chung đa số vẫn cho rằng: Nguyên do đời vua Tự Đức ( trị vì 1847 ~ 1883) 

Lăng Bà chính phi Chiêu Thánh Hoàng hậu Châu Thị Viên, vợ chúa Nguyễn Phúc Tần( trị vì 1648 ~ 1647) tọa lạc tại làng An Ninh, xã Thuỷ Bằng, huyện Hương thuỷ, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Bà mất ngày 26/12/1684, được truy phong là Từ Mậu Chiêu Thánh Cung Tình Trang Thận Hiếu Tiết Hoàng hậu. Triều vua Tự đức xây lăng và đặt tên là Lăng Vĩnh Hưng, trùng với tên làng ta.
............
Trong Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ
 1/Quyển 212- Việc trị sông- trang 134 dòng 14 chép:
Năm Gia Long thứ 16 (1817)
Chuẩn y lời tâu rằng: Địa phận Xã Vĩnh Hưng, Tổng An Thư, huyện Hải Lăng, nguyên có dòng nước kênh, trước đã khơi đào lấy nước vào ruộng, lâu năm úng tắc, cần khơi đào để tiện thoát nước lấy nước. 
2/Quyển 216- Mục Lăng tẩm
Phần Quy chế- trang 196 dòng 23 chép:


Lăng Hiếu triết Hoàng hậu gọi lăng là Vĩnh Hưng ở phần núi xã An Ninh phủ Thừa Thiên. tầng trong bảo thành cao 5 thước, chu vi 15 trượng. Tầng ngoài cao 6 thước 3 tấc, chu vi 28 trượng 4 thước 6 tấc, xây gạch, trước mở một cửa...
 Phần Xây dựng- trang 200 dòng 32 chép:
*Gia Long năm thứ 7 (1808) cho sửa sang lăng Trường Cơ, lăng Vĩnh Cơ, lăng Trường Diễn, lăng Trường Diên, lăng Trường Hưng, lăng Vĩnh Hưng......lăng Cơ Thánh, cả thảy 17 lăng....*Minh Mạng thứ 21 (1841) chuẩn y lời tâu rằng: 8 lăng Vĩnh Cơ, Trường Diễn, Trường Hưng, Vĩnh Hưng.......năm nay lợi hướng nên cho sửa sang....ra lệnh cho  quan Nguyễn Tiến Lâm kính đến lăng Vĩnh Hưng...
Phần Lệnh cấm- trang 207.
*Gia Long năm thứ 15 (1814) : ...Lại vâng lệnh thiết lập cấm hạn:......Lăng Vĩnh Hưng chu vi 280 tầm (1 tầm= 2.32 m) cho đắp 40 gò đất.(Mốc ranh cho biết giới hạn khu vực cấm xâm phạm của lăng).Minh Mạng năm thứ 8 (1827), dụ rằng: 2 chữ Vĩnh Thanh vì có tên lăng theo lẽ phải kính riêng, vậy trấn Vĩnh Thanh ra lệnh đổi thành trấn Vĩnh Long. lại ra lệnh truyền chỉ cho địa phương tra rõ tên các địa phương phủ huyện tổng xã thôn phường nếu cùng tên với sơn lăng và cung điện lầu các, thì tâu xin đổi lại ngay...
Trong Quốc triều Hương khoa lục- Cao Xuân Dục chép
Khoa năm Canh Tý-Minh Mạng thứ 21 (1840)
* Nguyễn Đức Trứ 阮 德 著 :Người xã Vĩnh Hưng,(nay đổi là Hưng Nhơn) Huyện Hải Lăng, làm quan đến chức Bố chánh.
Khoa Nhâm Tý- Tự Đức thứ 5 (1852)
* Nguyễn Đức Giản 阮 德 简:Người xã Hưng Nhơn, Huyện Hải Lăng, làm quan đến chức Viên ngoại lang.
Khoa Mậu ngọ, Tự Đức thứ 11 (1858)
* Nguyễn Đức Dĩnh 阮 德 颖 :Người xã Hưng Nhơn, Huyện Hải Lăng, làm quan đến chức Tri phủ.
Nguyễn Hữu Tộc gia phổ ( Thạch Hà- Thủy Châu- Hương Thủy Thừa Thiên Huế) Lê Sơn- Nguyễn Hữu Quý sưu tầm chú thích:
Ông tổ đời thứ 15 Nguyễn Hữu Khuê có người con gái thứ 4 gả về làm dâu họ Nguyễn Đức, Xã Hưng Nhân (Nhơn), (Phiên Âm từ bản chử Hán) 
- Tứ nữ Nguyễn Thị Ái, sinh Canh Thìn niên (1820), thập nhị nguyệt, sơ nhị nhật, Mùi khắc- Tốt, nhị nguyệt, sơ bát nhật, mộ tại Quảng Trị tỉnh. Giá hứa Quảng Trị tỉnh, Hưng Nhân xã Bố chánh Nguyễn Đức Hộ chi trưởng tử Phò mã Đô úy Nguyễn Đức Huy vi Phối.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét