Bài viết của ôn Nguyễn thanh Xuân ( 84 tuổi)
Rạng ngời Hưng Nhơn- Photo Khoa |
Vóc dáng và Tâm hồn
người làng Hưng Nhơn
Nhìn cơ ngơi làng Hưng Nhơn, người ta
dễ nhận ra người khai sinh và hậu duệ của họ có tầm nhìn rộng và khoáng
đạt. Không phải một sớm một chiều mà đã trải qua hơn 500 năm gây
dựng, từ một vùng hoang vu đầy lau sậy, mênh mông nước và nước, nhờ có
những tâm hồn nhạy cảm, dung hoà trong những diễn biến phức tạp của cuộc sống
mới có được bức tranh quê hương hài hoà và lộng lẫy:
Bước vào đầu làng:
-
Một nhà thờ, thờ các vị khai canh Làng.
-
Một ngôi chùa
thờ Phật.
-
Một nhà thờ
Thiên Chúa giáo.
-
Một nhà thờ
Văn Thánh (còn phế tích).
Dọc
con đường cái (duy nhất) cứ cách 30 – 50 m là nhà thờ của các Họ,
các Nhánh.
Đến cuối làng:
Miếu thờ Ngài Võ Địch Đại Tướng
Quân. Ngài là một trong ba anh em khai canh họ Nguyễn, họ xếp thứ hai
khai canh Làng,
Làng có một miếu thờ ngài Trần Quí
Công (tục xưng Ngài Đèn), nhưng nay không còn (tôi chưa rỏ nguyên nhân)
Phía sau, nơi xây hậu bạng làm luỹ
“cây” kiên cố chống bão lũ bảo vệ cho khu dân cư. Đồng thời ở đó, xây
một nơi thờ vong linh các cô hồn và cũng là tổ ấm của họ, có tên là
Âm Hồn nhìn ra một vùng Nghĩa Địa của Làng để cô hồn thuận tiện :
Nghe gà gáy tìm đường lẫn trốn
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi ẵm
trẻ dắt già
…………………
(Văn tế thập loại
chúng sinh của Nguyễn Du)
Nhìn chung bức tranh làng ta thực hài hoà: ĐỜI- ĐẠO-ÂM-DƯƠNG
một mối tương quan cộng đồng khăng khít, nương tựa nhau để vươn lên
trong cuộc sống. Thật đáng tự hào!.
Có được như trên, trước hết ta thấy
nét gốc Văn hiến đã có khi các
ngài từ đất Hoan Châu Nghệ an vào lập làng và các hậu duệ điều
chỉnh trong quá trinh sinh sống mà trong đó chính là các sĩ phu như
ngài Võ Địch Đại tướng Quân, võ tướng phò tá Đoan Quốc công Nguyễn
Hoàng năm 1558; ngài Trần Quí
Công :Tục xưng "Nghè Đèn"Thí Trung Văn Thức Hàn Lâm năm
Ất Mùi – 1715. Ngài Thượng Thư Tuyết Quang Hầu: Nguyễn Đức Mậu (1);
Ngài Thượng Thư Chính Trực Hầu: Nguyễn Đức Kỳ (2); ngài Bố chánh
Nguyễn Đức Trứ; ngài Viên ngoại lang Nguyễn Đức Giản; ngài Tri phủ
Nguyễn Đức Dĩnh…và bao thế hệ nho sinh, bao thế hệ chức sắc trong
làng, đã để lại một bề dày trí tuệ, giữ nét đẹp văn hoá cộng đồng
quê hương đáng khâm phục và tự hào với nhận định của Thượng Thư Dương
Văn An cách đây gần 600 năm trong Ô châu Cận lục “Vĩnh Hưng có chí
chuộng văn”.“Giáo hóa thịnh
hoài!”
(1) (2) Dân
làng gọi hai ngài là già Cha và già
Ông để nhớ ơn hai
Ngài nuôi dân làng Vĩnh Hưng (Hưng
Nhơn) thoát khỏi nạn đói khủng khiếp năm Giáp Ngọ 1774.
Tôi lấy một việc làm rất nhạy cảm
của các cụ Nho sinh, bô lão và dân làng:
Cuộc
CM năm 1945, nhà nước VNDCCH dùng chữ Quốc ngữ làm ngôn ngữ giao dịch
trong nước cũng như quốc tế. Ngay sau
đó, các Cụ đã lập tức dịch các giấy tờ trước đây là chữ Hán sang
chữ Quốc ngữ, chú trọng trước tiên là Tộc phả, Gia phả . Tôi thiết
nghỉ nếu không có trình độ Nho học cao như các ông Nguyễn Đức Hà,
Nguyễn Đức Ngạn, Lê Văn Phổ, Lê Ngọc Ký, Nguyễn Đức Thâm, Trần Văn Châm… và
những học trò học giỏi Quốc ngữ như Nguyễn Đức Phụng(Trịnh), Nguyễn
Hữu Quế, Nguyễn Như Lãm, Nguyễn Đức Dương, Lê Văn Phố…Tập thể đó với
tri thức phong phú, thông minh và nhạy bén đã khẩn trương dịch thuật chính
xác chép ra chữ quốc ngữ rất tỉ mỉ công phu và chu đáo trong năm 1946..
Cuối năm 1946 mặt trân Huế vỡ và chiến tranh
liên miên, nếu không làm xong trong năm 1946 liệu biết khi nào làm được?.
Nói để biết cho hay thôi: hiện nay có một số làng đang nhờ (thuê)
Viện Hán Nôm làm việc này, bởi các cụ Nho xưa trong làng đã qui tiên
cả rồi.
Đối
với vùng ta, khi tôi ở ngoài Bắc được biết là “vành đai trắng”, nghĩa
là không một tấc đất không bị cày xới, không một ngôi nhà còn nguyên
vẹn, mà thực tế phía VNCH đã làm như vậy, thế nhưng các bô lão cùng
con cháu một lòng vì công đức cao dày của tiên tổ mà đã tìm cách
cất dấu, di chuyển, bảo quản còn nguyên vẹn các tập gia phả, tộc
phả và các sắc tặng của Triều đình của các ngài khai canh và các
vị có công trạng với quốc gia.
Trong hoàn cảnh đất nước chiến tranh,
quê ta ở trong thế cài răng lược và cả khi phân chia hai miền, dù
“phải” hợp tác với bên nào, người dân hiền lành quê ta không có người
“ác ôn”. Phải chăng tâm hồn hướng thiện đã được “gen” di truyền của
cha ông để lại.
Những cô gái làng nết na sáng, đẹp lấy chồng
trong làng hay lấy chồng làng khác sao mà giống các cô gái làng khác đến làm dâu
làng mình. Dáng e thẹn rụt rè ban đầu, khi đã có con và nhất là khi có cháu, họ
nhảy lên làm chủ gia đình tự lúc nào, nội trị ngoại giao họ rất sành sỏi…Có thể
nhờ vậy mà người đàn ông làng Hưng Nhơn và người đàn ông làng khác lấy vợ người
Hưng Nhơn đều có dáng sang (giàu vì bạn sang vì vợ). Ví dụ như các mụ: mụ ấm Năm
người làng lấy chồng Phước Tích, mụ cửu Liên người Hoà Viện lấy chồng Hưng Nhơn
và mụ Thừa, mụ lý Thuỵ, mụ Lý Hà, mụ Thất Chiểu, mụ thất Cẩn, mụ cửu Kiến… nhiều
thật là nhiều không kể hết! Các bà rất
sắc sảo và đôn hậu.
.
Chúng ta thấy rất rỏ hầu hết các
chị có chồng đi tập kết ngoài Bắc đều kiên trinh ở vậy chờ chồng, nuôi
con. Thương quá, những người chưa có con cũng đợi chồng suốt cả hai
mươi mốt năm tuổi trẻ không tin tức. Biết lấy gì tri ân những tấm lòng
vàng ấy hỡi Quê Hương?
Nói gì thì nói, chiến tranh là đau
thương, là nát tan, nhất là vành đai trắng quê ta. Ý thức rằng mất
mát là không tránh khỏi. Sau khi thống nhất đất nước, với tính nhạy cảm
và cần cù có sẵn, bà con đã đồng cam cộng khổ vượt qua những năm “bi
đát” nhất, nhanh chóng ổn định, xoá nghèo và thực sự đang giàu lên!
Đang giàu lên! Phải không quê ta ơi!.
Xem
xem: Hưng Nhơn, phía đầu làng( nối Văn Quỹ) trước kia có cầu (Cừa) nhưng
bây giờ “chê” nhỏ, bắc cầu mới chịu trọng tải trên vài chục tấn,
cuối làng một cầu bê tông vĩnh cữu bắc qua bờ Nam (Thừa Thiên
Huế) Không dám khoe với thành thị,
khiêm tốn rằng: Có đường bê tông 4,5 m láng bóng, thẳng tắp đi sâu vào
từng ngõ, từng nhà; Có trường cao tầng thu dụng hết con em đến độ
tuổi đi học; Có nước sạch nông thôn; Có hố xí tự hoại; Đặc biệt có
chợ đông đúc, hàng hoá thoải mái mua sắm, nhất là thức ăn : ăn sáng, mua
sáng, ăn chiều, mua chiều, không dùng thức ăn hâm lại. (tuy là chợ Hưng Nhơn,
Hải Hoà nhưng chung cho cả bờ Nam vùng Phong Điền, TTH, nên
đông lắm, đông lắm!).
Các tổ
chức Chính quyền và Đoàn thể vững mạnh, các bô lão nhàn nhã trong y phục truyền
thống chăm lo hương khói đền thờ miếu mạo, thiện nam tín nữ cũng như các tín đồ
Thiên chúa giáo vui vẻ đến Chùa, đến Nhà thờ
niệm tâm tín ngưỡng. Thật là tự
do thoải mái và yên bình trong tâm tưởng.
Con em ở làng như Nguyễn Như Khoa, Nguyễn Thị Thi Thơ
và các cháu người làng đang cư trú nơi xa... thường xuyên và kịp thời đưa hình ảnh và bài viết về quê hương, người
làng dù ở xa đều được biết những đổi thay của làng mình, để phấn khởi và tự hào.
Phần tôi rất hoan nghênh và cám ơn ba bạn, vì tuy ở xa nhưng biết ngày lễ Thanh
Minh, ngày khánh thành cổng chùa, ngày Thanh niên tình nguyện đi Hải khê,
TN tình nguyện ra đồng ruộng, ngày VTV do MC Quyền Linh tố chức “Vượt lên
chính mình” v.v…
Khoe
với bạn tôi đến chơi, họ thừa nhận : Hơn đây…hơn đây!.
Bất
giác: “Thế mà mình phải xa quê!”.
Email:
<nhuxuan29@gmail.com>
Cảm khán của Blogger: Lời văn phóng khoán, mạch lạc; bút lực mạnh nhưng thanh thoát đầy tính nhân văn. Tác giả mang trong tâm mình một tình yêu quê hương da diết, day dứt. Tính lạc quan, yêu người, yêu thiên nhiên cảnh vật quê hương đã làm thành một luồng gió mát, len lỏi thâm nhập vào tận vùng sâu nhất của tâm hồn người đọc, gợi nhớ, gợi thương, gợi niềm khắc khoải !
Cảm ơn, cầu chúc Ôn an lạc ở cõi vĩnh hằng.
Cảm ơn, cầu chúc Ôn an lạc ở cõi vĩnh hằng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét