Cá Đô
làng Hưng nhơn
Cá Đô có nhiều tên gọi: cá tràu, cá quả, cá chuối, cá lóc…cá ma ma. Trong bài viết này tôi gọi theo ở quê lúc
tôi còn nhỏ.
Cháo vạt chờng |
Nguồn gốc : Sau tiểu mản, tháng tư
tháng năm âm lịch, cặp cá đô đực, đô cái trưởng thành, rủ nhau tìm
nơi có đám bèo, cỏ lùng yên tĩnh, mát mẽ xây dựng tổ ấm. Cá cái
đẻ một bọc trứng bùng nhùng được cá đô đực tưới cho một “tinh dịch”
tràn trề để bọc trứng ấy thụ thai rồi nở
ra một đàn con đỏ hỏn,
đông ơi là đông. Dân làng gọi là cá ma ma, Sao lại ma ma, có lẽ khi
có bóng người, đàn ma ma theo ”hướng dẫn” của cá bố cá mẹ túc trực
bên dưới, chúng lặn mất tăm không thấy gì nửa- như ma! Cá bố mẹ cam
con lắm, có khi há mồm cho đàn cá con vào bụng sau khi yên tĩnh nhã
ra. Khi lớn lên bằng ngón chân cái thì gọi là cá lóc, lớn to bằng
bắp tay mới gọi cá đô, cá tràu, cá quả, cá chuối…và khi đã thành thân
rồi người ta quên đi nó đã từng có cái tên cúng cơm: ma ma. Cũng tương
tự trường hợp con trâu, lúc còn nhỏ gọi là nghé, lớn lên gọi là trâu, quên nghé.Nướng cá hè! |
Cá
ĐÔ, nhìn dáng nó như một đô vật; CÁ CHUỐI nhìn dáng nó như bắp
chuối,
CÁ LÓC chỉ gọi khi nó bằng ngón
chân cái thôi vì ở tuổi ấy nó phóc nhanh lắm, người ta dành cho nó
tên đặc biệt: O, (mệ) bán cho con cá lóc, người bán bắt ngay cho con
cá bằng ngón chân cái.
CÁ TRÀU
không tưởng tượng nó giống hình dạng nào nhưng lại gọi thông
dụng hơn. Sau này được gọi chung là CÁ LÓC.
Năm 1947 tôi làm ruộng, khoái
nhất là bắt cá tràu.Tháng tư tiểu mản, nước mênh mông, đầu tháng năm
nước rút, ăn mồng năm xong là ra đồng cắm trại. Trước lúc cày là
đắp bờ kín cả thửa ruộng, những chổ dường lở nhiều đắp thành cái
máng, bên trong khuấy nhiều bùn sền sệt. Trong ngày trâu càỳ nước xao
động, thế là đêm ấy cá tim đường tẩu thoát. Đến nơi thường ra vào
cũng bị chặn kín chỉ có cách nhảy ra. Nhảy là vào máng, trong máng
bùn sền sệt dính đầy thân không nhảy được nửa đành nằm im chờ đợi.
Chúng tôi dùng bao tải đi hết máng này sang máng khác. Ôi nhiều thật
là nhiều, chẳng khác gì cá ở bờ biển Hồ (Căm pu chia). Chuyện rằng
một người ngủ gật trên thuyền đậu bên bờ hồ, đêm nước rút, anh ta
ngủ quên rơi tõm xuống đất, sáng dậy hoá ra anh ta nằm trên những lớp
cá dày đặc.
Để tối bắt cá tiếp, chiều phải sửa
lại máng chủ yếu là trộn bùn cho
nhảo. Những đêm sau tuy có ít dần, nhưng do cày nhiều thửa ruộng nên
nhiều cá lắm. Cá phơi đầy cồn. Khô thật là khô mới gói cất.
Không nhảy ra hết, có những con vẫn chưa
tìm cách ra được, những con này sẽ đến lượt mình là khi bác thợ
cày chuyển sang bừa, loại bừa đạp (bừa thì nước sền sệt) thanh bừa
trượt qua thân cá, cá “đau” nằm giảy nảy phơi bụng trắng hếu, thợ
cày nhanh như chớp trở ngọn roi quất một phát, cá giảy đành đạch,
túm gọn thả vào oi. Cá khô không
dùng ngay mà cất kín dự trữ đến mùa ngồi trên giàn chống lũ mới
sờ đến.
Thịt cá tràu quê tôi có vị ngọt đặc
biệt, có lẽ nó được ăn ngon nhiều chất bổ là lúa chín rụng giữa
đồng ruộng. Giỗ chạp không thể thiếu bát canh CÁ ÁM. Món canh chỉ
cần đầu con cá tràu với mấy lá chua me đất. Hai má cá tràu ngon đến
nổi đã thành cổ tích.
Có
thể do nhiều cá tràu mà có món CHÁO BÁNH CANH, món đặc sản quê tôi.
Ở Quảng trị ai mà chẳng biết chứ ở địa phương khác có người tò mò
hỏi tôi món ăn gì mà lạ vậy.Tôi tự lý giải rồi trả lời: bởi nó
có ba hương vị và ba tác dụng khác nhau. Ăn cháo cá, bánh bột cá,
canh cá. Đã gọi là cháo bánh canh nhất thiết phải có cá tràu, ít
nữa cá lóc cũng được (cá nhỏ) Không có cá tràu thì không thể gọi
là cháo bánh canh được. Bây giờ nhiều mặt hàng quà bánh, xem ra chưa
loại quà nào cạnh tranh nổi với nó. Bát cháo nóng, rắc lên ít hạt
tiêu nó bốc lên và toả rộng ngào ngạt, vị ngọt và thơm đặc trưng mà
tôi không tả nổi chỉ biết ngon và thú vị.
Để nhớ lại những lần đi ngang quán
cháo bánh canh, trong thơ tôi, đã có câu tặng hương vị quyến rũ của
món này:
“Có
ai mời đón đâu anh
Mà
chân như đã trở thành tri âm”.
Bắt cá tràu có nhiều cách:
- Chiều tối, móc nhái bén vào lưỡi câu
(gọi là câu cặm, nhái chạm mặt nước, chân vẫy vùng kêu gọi. Cá tràu
đến, gặp nhái đớp ngay thế là chú cá tràu bị treo lơ lững, chờ
người đến bỏ vào oi (giỏ)
- Người đi câu có kèm con vịt: Đám cỏ lùng này có lớp trứng cá vừa
đẻ hoặc có đàn cá ma ma, người đi câu thả con vịt xuống (vịt đã
được huấn luyện), vịt bị cá mẹ, cá bố cắn vội nhảy lên bờ. Chắc
rồi, người câu chỉ cần ngồi xa thả lưỡi câu có mồi nhái xuống là
giật lên con cá tràu to đùng.
ghe câu- ảnh Face- hải lăng đất mẹ ngọt ngào |
- Người bơi chiếc ghe nhỏ (chỉ một
người ngồi) Bơi dọc hai bờ sông dùng cần câu, gọi là câu nhắp. Cá
tràu này thì ngon và ngọt hơn cá tràu ngoài đồng bởi nó ở nước
mát và sâu.
Tiểu mản- ảnh Face- hải lăng đất mẹ ngọt ngào |
- Câu cá theo ròng rọc. Đứng xa quăng dây
qua bên kia bờ hoặc dọc bờ, con nhái móc ở lưởi câu rê trên đám bèo
nhấp nhỏm gây cái thèm cho cá, cá đớp thế là theo dây câu lôi về với
giỏ.
Còn những hình thức khác nữa nhưng tôi
không nhớ hết
Hồi đó chưa có cách bắt kiểu lưới
quét, chưa biết cách bắt bằng điện v.v… vì thế cá lúc nào cũng
nhiều. Hy vọng cách bắt có tính “huỷ diệt” như hiện nay sẽ giảm dần
để có đàn cá như ở Tông lê sáp (Biển Hồ Campuchia).
Ký ức....ảnh Face- hải lăng đất mẹ ngọt ngào |
Kỳ tới: Bến Ngã Ba
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét