Thứ Hai, 4 tháng 11, 2013

Quê hương khói lửa! (10)

Chưa tìm được tư liệu cụ thể về thời kỳ chiến tranh 1771- 1802 liên quan đến vùng ruộng sâu- Hải hòa- Hải lăng.
Nhưng những ảnh hưởng của nó có được kể trong gia phả các họ trong làng...Nạn đói...người chết...Mồ mả thất tích...Làng có 06 Họ, nếu đoán định lập làng từ đầu thế kỷ 16, đến giửa TK 18 hơn 200 năm, tám thế hệ được sinh ra lớn lên trên quê hương mới (06 Họ> tạm tính đến thời điểm này dân số làng cũng phải trên 500 người) ấy thế mà theo truyền khẩu của một họ lớn trong làng...cả làng chỉ còn vài chục nóc gia ...02 Ngài Họ Nguyễn -Già Cha, Già Ông đứng ra nuôi làng trong hơn 03 tháng...Họ Lê Ngọc (trước 1954 là họ Lê Đức) gia phả chỉ còn chép lại từ đời thứ 12, chỉ có 03 gia đình, họ Lê Văn còn 01 gia đình...!Sự khốc liệt của chiến tranh được mô tả trong trích đoạn sau:

Khi ra Bắc đại phá quân Thanh, Nguyễn Huệ đã qua Nghệ An và Thanh Hóa lấy thêm quân lính đến tám vạn người (1).Với hơn 10 ngày tuyển binh và kể từ ngày bắt đầu tuyển (ngày 29 tháng 11 Mậu Thân tới Nghệ An) cho tới ngày ra trận, trong vòng chỉ khoảng 01 tháng trời, đồng thời phải chuyển quân một khoảng đường dài hàng mấy trăm cây số mà lính ấy ra trận đánh giặc lại hay, như vậy thực là ngoài sức tưởng tượng. Giáo sĩ Le Roy đã tả đạo quân Quang Trung thì gồm cả người già lão, trẻ con trông giống một toán bệnh nhân ốm yếu hơn là một đoàn chiến binh. Ấy thế mà đạo quân khốn khổ ấy lại tàn sát được đạo quân Trung Hoa (2).


Tài dùng binh của Nguyễn Huệ – Kỳ I: Nguyễn Huệ, một thiên tài quân sự chưa hề nếm mùi thất bại.

TÀI DÙNG BINH CỦA NGUYỄN HUỆ
(Nguyễn Nhã)
 I. NGUYỄN HUỆ MỘT THIÊN TÀI QUÂN SỰ  CHƯA HỀ NẾM MÙI THẤT BẠI
Chiến thắng bất hủ Xuân Kỷ Dậu đã đưa Nguyễn Huệ lên tột đỉnh đài vinh quang của dân tộc. Người đời sau có thể vì quá thần thánh hóa con người hùng của Nguyễn Huệ, nên người ta đã coi Nguyễn Huệ như một thiên tài quân sự siêu việt. Thực ra thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ cũng đã được người cùng thời với Nguyễn Huệ xác nhận như là một sự thực không thể chối cãi.
Các giáo sĩ thường ví Nguyễn Huệ như là “Alexandre” hay “Tân Attila” (2). Đại đế Hy Lạp Alexandre Le Grand và vua hung nô Attila đều là những nhà quân sự nổi danh “bách chiến bách thắng” ở Châu Âu.
Người Việt cùng thời với Nguyễn Huệ như một cung nữ cũ của vua Lê, khi nghe tin vua Lê Chiêu Thống đã đưa Tôn Sĩ Nghị về Thăng Long, đã từ Trường An (4) ra Thăng Long nói với Thái Hậu:
“Cứ xem những lời trong bài hịch thì, thấy Ngài (Tôn Sĩ Nghị) buộc cho ta nhiều lắm, mà Ngài thì cứ lượn lờ trên sông, chỉ dùng thanh thế dọa nạt, không biết Nguyễn Huệ là bậc anh hùng lão hung thủ hung tợn và giỏi cầm quân. Coi y ra Bắc vào Nam, thật là thần xuất quỷ nhập không ai có thể dò biết. Y bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Vũ Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào còn dám trông thẳng vào mặt. Nghe lệnh của y, ai cũng mất cả hồn vía, sợ hơn sấm sét. E rằng bất nhật y sẽ lại ra, quân Tôn Tổng Đốc còn có cái lo bên trong, địch sao cho nổi!” (5).
Các sử quan nhà Nguyễn cũng phải xác nhận:
… “Nguyễn văn Huệ là em của Nguyễn văn Nhạc, tiếng nói như tiếng chuông to, mắt lập lòe như ánh điện, là người giảo hoạt đánh giặc rất giỏi; người người đều sợ Huệ” (6).
Cái giỏi và độc đáo của Nguyễn Huệ ở điểm xuất thân là kẻ ít học, chỉ là kẻ “áo vải”, người trong “hang núi” như Nguyễn Huệ đã tự nhận, không xuất thân từ một trường dạy võ nào, hay một chức, quan võ nào của triều đình mà từ một kẻ bạch đinh trở thành một tướng lãnh tài ba.
Phàm kẻ làm tướng tài, thì như Tôn Tử nói: “Tướng ấy là trí, là nhân, là kính, là tín, là dũng, là nghiêm. Trí là để bẻ gãy kẻ địch, nhân để làm cho người ham theo, kính là để chiêu người hiền, tín là để đúng lệ thường, dũng là để thêm khí, nghiêm là để nhất lệnh.”
Nguyễn Huệ thật là một người lắm mưu nhiều trí.
Không có trận đại thắng nào mà Nguyễn Huệ không dùng tới mưu từ trận đầu tiên đi vào sử sách là trận đánh úp quân Tống Phước Hiệp ở Phú Yên với kế “dụ địch”, khiến địch không đề phòng xuất kỳ bất ý đánh úp, giúp quân Tây Sơn lật ngược được thế cờ. Trận đánh chiếm Phú Xuân (1786) với kế “ly gián” phối hợp với kế “dụ địch” khiến hai tướng Phạm Ngô Cầu và Hoàng Đình Thể nghi kỵ nhau và Phạm Ngô Cầu mắc mưu bắt quân lính phục dịch mọi việc không còn hơi sức chiến đấu. Trận phá 20.000 quân và 300 chiến thuyền của Xiêm (1784) cũng dùng tới kế “phục kích”. Đến khi ra Bắc Hà diệt họ Trịnh, Nguyễn Huệ dùng đường thủy ngược theo sông Hồng tới địa phận Lỗ Giang (7) gặp thủy quân của Đinh Tích Nhưỡng, Nguyễn Huệ lại dùng kế “dụ địch” khiến quân Nhưỡng mắc lừa, bắn vào thuyền không lúc đêm tối, đến khi sáng ra thì bắn hết đạn, quân Nguyễn Huệ đã ập tới, phá tan quân Đinh Tích Nhưỡng làm phòng tuyến trấn giữ kinh thành bị chọc thủng, khiến quân của Nguyễn Huệ tiến tới kinh thành không mấy khó khăn.
Đến khi đại phá quân Thanh thì sự vận dụng mưu trí của Nguyễn Huệ đã đi đến mức tuyệt diệu.
Tôn Sĩ Nghị vốn tính hay kiêu khi sang nước ta chưa gặp được sức kháng cự nào, từ biên giới cho tới núi Tam Tầng (8), đường đi rất dễ dàng, Nghị dương dương tự đắc, gặp Tham tri Vũ Chinh nói về tình hình Tây Sơn có nói: “Nguyễn Huệ là tay lão luyện về việc hành trận, tay cầm một đội quân rất mạnh.” (9) Tôn Sĩ Nghị đã cười mà rằng: “Nước người vì bị tàn ngược đã lâu, mất hết nhuệ khí nên động một tí thì đem hùm sói ra mà dọa, tự ta coi ra nó chỉ như hạng chó dê, chỉ sai một người dùng thừng buộc cổ lôi về chẳng khó khăn gì. Đợi khi ra đến La Thành, chỉ nhổ nước bọt xoa tay là xong việc. Ngươi hãy thử ngẫm mà xem” (10).
Nghị lại tỏ ra chủ quan hơn nữa khi Lê Quýnh đến dinh Nghị yêu cầu động binh, Nghị nói: “Việc gì mà phải lật đật như thế? Chẳng qua cũng như lấy của trong túi, lấy sớm được sớm, lấy muộn được muộn. Bây giờ đã sắp hết năm, đại quân đi xa cần phải nghỉ ngơi, không nên đánh vội. Giặc gầy thì ta béo, để nó tự đến nộp thịt. Nhưng “nước ấy” đã xin như thế thì nên tính từ Đô Thành về Nam, chừng 60 dặm, chia quân đóng 3 đồn, đó cũng là cách phòng xa, chờ đến sang năm tiến quân mà bắt chưa muộn” (11).
Chưa rõ tình hình ra sao, chưa có kinh nghiệm gì về địch mà Nghị dương dương tự đắc kiêu căng, như vậy làm sao có thể tránh khỏi kế kiêu địch của Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ đã gởi thơ tới Tôn Sĩ Nghị xin hàng (12). Trước ngày tấn công, Nguyễn Huệ lại cho quân đến khiêu chiến và giả thua nhiều trận. Sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám cương mục chép: “Ngày 04 tháng giêng năm ấy, quân lưu động của giặc, đến trước, hễ đánh trận nào thì thua luôn trận ấy, Sĩ Nghĩ rất coi khinh” (33). Nhờ vậy, Quang Trung có được yếu tố bất ngờ, và với lối hành binh thần tốc, quân Thanh đã trở tay không kịp, nên đại bại.
Nguyễn Huệ lại tỏ ra là người có tài tiên liệu thần tình, chẳng khác nào Khổng Minh sắp đặt công việc.
Từ khi chiến thắng Phú Xuân, Nguyễn Huệ đã tỏ ra là một người có mưu trí về cả chính trị. Những lời đối đáp với Nguyễn Hữu Chỉnh khi Chỉnh đưa ra đề nghị chiếm đất Bắc Hà đã chứng minh điều đó. Huệ đã quan tâm đến yếu tố nhân tâm trong cuộc chiến, nào e sợ nhân tài Bắc Kỳ, nào lấy danh nghĩa tiến quân cho hợp lòng người; đến khi được Chỉnh nói trúng ý mình thì ông quyết định liền (14).
Nguyễn Huệ đã tiên tri được sự “trung thành” của Nguyễn Hữu Chỉnh.
Sau khi diệt được họ Trịnh, Nguyễn Huệ trở về Phú Xuân, bỏ Nguyễn Hữu Chỉnh ở ngoài Bắc, nhưng Chỉnh đã vội đuổi theo gặp Nguyễn Huệ ở Nghệ An. Nguyễn Huệ cho Chỉnh cùng Nguyễn văn Duệ ở Nghệ An và dặn riêng bọn Duệ: “Chỉnh vốn là đứa vong mạng đến đầu ta, hắn phản phúc không thể tin được, ta lúc đầu muốn mượn tay người Bắc Hà giết hắn, chẳng ngờ hắn chạy thoát theo đây. Theo nghĩa, ta cũng không nhẫn bỏ hắn, Nghệ An là quê quán hắn. Ngươi hãy xem xét binh tế động tĩnh của hắn mà phòng bị. Nếu có biến thì đưa thơ cấp báo” (15).
Quả nhiên, Chỉnh mưu chống lại Nguyễn Huệ khi nắm quyền hành ở Bắc Hà. Sau khi được vua Chiêu Thống vời ra thanh toán bọn Trịnh Bồng. Nguyễn Huệ đã sai Vũ văn Nhậm ra bắt Nguyễn Hữu Chỉnh, nhưng Huệ đã tiên tri được những hành động của Nhậm nên đã cho bọn Ngô văn Sở và Phan văn Lân đi theo. Trước khi đi, Nguyễn Huệ nói kín với Ngô văn Sở và Phan văn Lân: “Nhậm trong chiến dịch này cầm trọng binh, chuyên việc nước lớn lao thì cái biến không thể nào liệu trước được. Điều ta lo không ở Bắc Hà mà chỉ ở Nhậm thôi. Bọn ngươi phải xem xét hắn tỷ như lửa vậy, dập lúc lửa mới nhen nhúm thì sức rất dễ” (16).
Đến khi được tin cấp báo của Ngô văn Sở về hành vi của Nhậm, Huệ bèn bảo: “Vũ văn Nhậm, ta vốn biết hắn ắt làm phản, thì quả nhiên” (17).
Nguyễn Huệ như đã đoán trước những biến cố sẽ xảy ra cho Bắc Hà, và đã có con mắt tinh đời, biết tài Ngô thì Nhậm, là người có thể đương đầu với thời thế khi có biến, đã dặn dò bọn Ngô văn Sở và Phan văn Lân nên tin cẩn và nghe lời Nhậm. Ông nói với bọn tướng tá rằng: “Phải hội đồng thương nghị với nhau, chớ vì mới cũ mà xa cách nhau, ấy là điều mong ước của ta.”
Quả nhiên nhờ có Ngô thì Nhậm bàn kế rút lui để bảo toàn lực lượng thủy bộ và kế “dụ địch”, “kiêu địch”.
Khi gặp bọn Sở, Nhậm ở núi Tâm Điệp (đèo Ba Dội), Nguyễn Huệ đã tiên đoán là do Nhậm bày kế ấy. Khi hỏi Nguyễn văn Tuyết quả nhiên đúng như thế (18).
Trước khi phát binh ra Thăng Long, Nguyễn Huệ lại nói với Ngô thì Nhậm:
“Nay ta tự coi đốc tướng sĩ, phương lược tiến đánh đã tính sẵn rồi. Chẳng quá 10 ngày có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ nó là nước lớn, gấp 10 lần nước mình, sau khi bị thua 1 trận ắt lấy làm thẹn mà cố báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, thật không phải phúc cho dân, lòng ta không nỡ làm vậy. Tới lúc đó, chỉ có một cách thật khéo, thì mới ngăn được cái ngòi chiến tranh, việc ấy phi Ngô thì Nhậm không ai làm nổi. Đợi 10 năm nữa ta đủ thời giờ gầy nuôi, nước giầu quân mạnh thì ta có sợ gì nó” (19).
Đến khi phá quân Thanh xong, lúc đầu để Hôn Hổ hầu viết biểu cho Càn Long xin phong làm An Nam quốc vương. Biểu ấy khi chuyển tới Thanh Hùng Nghiệp, thì viên này cả khinh nói với sứ giả Hôn Hổ hầu: “Nay không phải là hai nước đang đánh nhau, sao lại viết toàn một giọng giận dữ. Viết như thế là muốn cầu phong tước chăng hay muốn khơi hấn chiến tranh chăng?” (20).
Sau Quang Trung phải giao hắn cho Ngô thì Nhậm: Lo việc ngoại giao với nhà Thanh thì y như rằng việc giao hảo với nhà Thanh thật rất tốt đẹp, khiến vua tôi nhà Lê trở nên khổ nhục.
Những sắp đặt mưu kế, tiên liệu tính toán như vậy chứng tỏ mưu trí của Quang Trung cao đến mức nào!
Nói về cái dũng Nguyễn Huệ, chánh sử triều Nguyễn ghi:
“Nguyễn Huệ đã bốn lần đánh phá Gia Định, lâm trận đi đầu các quân sĩ, hiệu lệnh rất nghiêm minh, quân sĩ đều kính phục” (21). Làm tướng mà luôn luôn đi đầu khi lâm trận thì sao quân sĩ chẳng kính phục?
Khi chỉ huy trận đánh quân Thanh, Nguyễn Huệ cỡi voi đốc xuất quân sĩ xông pha vào lửa đạn đến nỗi khi tiến vào thành Thăng Long, chiến bào của vua Quang Trung biến thành đen xám vì thuốc súng (22).
Trong một bản ký nhật của Giáo Hội Truyền Giáo Bắc Hà gởi về cho Giáo Hội Truyền Giáo Trung Ương ở Ba Lê có kể: “Ngày 30 tháng 01 (1789) Quang Trung rời Kẻ Vôi (Hà Hồi) trên lưng voi và đến chung sức, khuyến khích đội ngũ ông, nhưng khi thấy họ chiến đấu không được hăng hái lắm, ông liền bỏ voi và dùng ngựa. Theo lời đồn, ông đeo hai cái đoản đao (gươm) và chạy ngang dọc chém rơi đầu nhiều võ quan và binh lính, làm rất nhiều người chết về tay ông, ông luôn  mồm hò xung phong và lúc nào cũng ở trận tuyến đầu” (23).
Điều này chứng tỏ sự vô cùng xông xáo của Nguyễn Huệ làm tướng coi cái chết nhẹ như lông hồng.
Tôn Vũ Tử xưa kia khi ra mắt vua Ngô Hạp Hư đã chứng tỏ sự áp dụng hiệu lệnh nghiêm minh của mình đã cho chém đầu 02 người thiếp yêu quý nhất của nhà vua khi 2 người này làm đội trưởng cho một toán 180 cung nữ để Tôn Vũ Tử áp dụng thử hiệu lệnh. Tôn Vũ Tử đã ba lần ra lệnh, năm lần nhắc lại và lại phải một lần thứ hai làm như vậy, mà bọn cung nữ cứ cười cợt không tuân theo, ông mới ra lệnh chém 2 người thiếp yêu của vua dù vua can xin tha tội. Người đời về sau khen hiệu lệnh Tôn Tử thật là nghiêm. Hiệu lệnh của Nguyễn Huệ cũng nghiêm khắc không kém. Trong bức thư đề ngày 11 tháng 06 năm 1788, giáo sĩ La Bartette gởi cho giáo sĩ Letondal có viết: “quân giặc (quân Tây Sơn) đôi khi điều động được tới 200, 300.000 quân, sự thực thì đa số bị cưỡng bách, nhưng tất cả đều quyết tử – kẻ nào nhìn về sau trận địa, lập tức bị chém đầu.” (24)
Ngày lễ thành phục vua Lê Hiển Tôn, Huệ mặc đồ tang đứng bên trái trên điện, có một người chấp – sự cười lén – Huệ ra lệnh bắt đem ra chém. (25)
Khi Nguyễn Huệ ra Bắc diệt họ Trịnh, bọn côn đồ thừa cơ hỗn loạn nổi lên cướp bóc khắp nơi, Nguyễn Huệ đã áp dụng sự trừng phạt gắt gao, giáo sĩ Le Roy (ở Nam Định) đã viết cho ông Blandin ở Ba Lê ngày 11 tháng 07 năm 1786:
… “Những người Nam Hà này (quân Nguyễn Huệ) đã áp dụng sự xử án khắc nghiệt – mới thấy tố cáo chẳng cần đợi xét xử lôi thôi, họ đã chém đầu những bọn trộm cướp hay tất cả những kẻ nào bị người ta tố cáo là trộm cướp. Người ta rất lấy làm thích sự xử phạt như vậy và sự liêm khiết của quân Tây Sơn. Vì họ không cướp bóc ai, họ chỉ biết chặt đầu mà thôi. Điều đó đã khiến cho yên lành một vài nơi trong một thời gian.” (26)
Nguyễn Huệ nghiêm khắc việc quân sự như vây, không hẳn con người sắt thép ấy không còn tình cảm mà sự thực Nguyễn Huệ lại là người nhiều tình cảm hơn hết. Bằng chứng như khi người vợ cả của ông mất, ông đã thương tiếc gần như điên khùng (27).
Ngày 16 tháng 06 năm 1792, giáo sĩ Le Lalousse lại viết thơ cho người bạn của ông:
“Cuối cùng tôi được biết rằng một trong những bạn của chúng ta (Girard) ở Nam Hà hiện nay đương ở trong triều đình phiến loạn, ông ta bị bắt phải đến để chữa bệnh cho người vợ của “bạo chúa” vì ông đã đòi 01 người y sĩ người Âu. Tại triều đình, ông này được đón tiếp rất trọng hậu và hạnh phúc lớn lao nhất có lẽ chính là vợ của Tiếm Vương đã chết trước khi ông có thể khám bệnh. Ông “bạo chúa” đã đau khổ đến cùng cực về việc ông Girard không được gọi đến kịp thời (28).
Nguyễn Huệ dù sắt đá đến đâu cũng phải mềm lòng trước nước mắt của giai nhân. Khi Lê Hiển Tông chết, Huệ giận Tự Tôn đã không mời trước đến bàn việc tang ông bố vợ mà lại để khi nhập liệm xong mới đến mời. Nguyễn Huệ cho đó là có ý coi mình như những người ngoài, lập tức sai người vào triều bắt phải hoãn lễ đăng quang, muốn lập người khác. Nhưng khi công việc đăng cực đã xong, triều đình đã cho người ra báo tin thành lễ với ông, Nguyễn Huệ giận dữ bèn truyền lệnh các quân thủy bộ sắm sửa hành trang cho kịp ngày rút quân về nước (20). Nhưng đến khi Ngọc Hân công chúa khóc xin Huệ ở lại, thì Huệ không thể đành lòng.
Người anh hùng ấy cũng hơn một lần chiều theo ý giai nhân. Ngọc Hân đã “thỏ thẻ” đễn nỗi Huệ có ý không chịu lập Tự Tôn lên ngôi. Đến khi công chúa nghe nói triều đình giận mình, kết tội mình làm hại đến việc lớn của xã tắc thì Ngọc Hân công chúa lại về phủ để xin với Huệ lập Tự Tôn trở lại. Công Chúa đã nói thế nào để Nguyễn Huệ cũng lại mềm lòng, nể “người đẹp” mà bằng lòng.
Không phải là con người không có tình cảm nên Nguyễn Huệ thật cũng có thừa lòng nhân. Xem việc Nguyễn Huệ xử sự trước cái chết của Trịnh Khải thì biết. Khi bọn Nguyễn Trang đến nộp đầu Trịnh Khải. Nguyễn Huệ nói: “Đáng tiếc cho một hảo nam tử, lúc đầu nếu sớm đầu hàng thì hẳn không mất phú quý, sao lại khổ tử, hủy mạng”. Rồi Huệ cho lấy lễ bực vương tống táng Trịnh Khải (31). Thật khác hẳn với kẻ hẹp lượng, chỉ muốn băm vẳm kẻ địch, đến nỗi kẻ thù chết rồi vẫn không tha, cho quật mồ quật mả. Thái độ đối với Trịnh Khải thật là độ lượng của người anh hùng.
Còn lòng kính hiền đãi sĩ của một võ tướng như Nguyễn Huệ thì thật khó ai bì kịp. Điển hình như sự đối xử của Nguyễn Huệ với La Sơn phu tử. Bao lần “mời cụ không ra, lễ cụ không nhận, lộc dưỡng lão cụ cũng từ. Thế mà Quang Trung chỉ ôn tồn kính cẩn, trách nhẹ mà thôi, rồi lại cố mời cụ ra. Lòng mến kẻ hiền lớn mạnh biết chừng nào!” (32)
Với tư cách ấy, Nguyễn Huệ đã tỏ ra một vị tướng tài ba vẹn toàn. Vị Tài ba này đã hơn một lần được chứng tỏ bằng những chiến tích anh dũng của ông. Từ trận đánh úp tại Phú Yên quân Tống Phúc Hiệp (năm 1773) đến trận Đống Đa (năm 1789), gần 20 năm trời vị tướng trẻ tài ba ấy đánh nam dẹp bắc, không hề nếm mùi thất bại. Trong bài hịch gửi đến quan quân và dân hai tỉnh Quảng Ngãi, Qui Nhơn, ông đã nói: “Nơi nào có ta mang quân đến, nơi đó quân thù bị đánh tan tành” (33).
Trong sử sách không thấy đoạn nào ghi chép sự thất bại của Nguyễn Huệ. Trong 04 lần vào đánh Gia Định, nơi nào Nguyễn Huệ tới, nơi đó đối phương phải chịu thảm bại. Đại Nam thực lục chính biên của triều Nguyễn, vốn ác cảm với Nguyễn Huệ cũng chỉ có thể viết: “Tháng 12 (năm Giáp Thìn 1784) giặc Tây Sơn Nguyễn văn Nhạc nghe tin quân giặc cấp báo, tức thì sai Nguyễn văn Huệ đem binh thuyền vào cứu Sai-gon. Huệ đến, đánh vài trận không được,muốn đem quân về. Có tên phản thần là Lê Xuân Giác bày kế cho Huệ đem hết quân mạnh mai phục ở rạch Gầm và ở Xoài Mút (Định Tường) rồi dụ quân Xiêm lại đánh (34). Đó là lần duy nhất sách Thực lục nói Nguyễn Huệ không thắng, nhưng cũng không nói là thua.
Đánh Gia Định lần thứ nhất vào mùa Xuân Đinh Dậu (1777), quân Nguyễn phải chạy dài, đến tháng 09 mùa thu năm ấy, chúa Nguyễn Duệ Tông bị giết, chỉ một mình Nguyễn Ánh thoát, lên thuyền đậu sông Khoa (Long Xuyên) rồi lẩn tránh.
Đánh Gia Định lần hai vào mùa Xuân (tháng 03) Nhâm Dần (1782). Quân Nguyễn không ngăn được sự tiến quân của Tây Sơn từ biển vào theo lối Cần Giờ, Nguyễn Ánh phải chạy đến Lữ Phụ (Giồng Lữ) thuộc tỉnh Định Tường, nhặt tàn quân còn khoảng hơn 300 người. Nguyễn Ánh cố gắng vùng lên, đánh bại được quân của tướng Tây Sơn là Đô đốc Nguyễn Học tới đánh; thừa thắng quân Nguyễn phản công Tây Sơn, khí thế lên mạnh. Nhưng khi quân Nguyễn tới đóng ở Ngã Tư (Tứ Kỳ Giang, thuộc tỉnh Gia Định), Nguyễn Huệ đem quân mạnh ập tới, bày trận bối thủy (quay lưng xuống nước như Hàn Tín) mà đánh, quân Nguyễn thảm bại. Nguyễn Ánh chạy về miền Hậu Giang, tới Hà Tiên rồi ra Phú Quốc, và phải sai Nguyễn Hữu Thụy, Trần Xuân Trạch cùng cai-cơ Cao Phúc Trí sang Xiêm cầu viện (35).
Lần thứ ba, cũng vào mùa Xuân (tháng 02) Quý Mão (1783), Nguyễn Huệ cùng Nguyễn Lữ lại vào đánh Gia Định cũng từ cửa Cần Giờ tiến vào… Quân Nguyễn lại bị bại, Nguyễn Ánh phải chạy về Ba Giồng (Tam Phụ, Định Tường), quân không còn đầy một trăm, bầy tôi còn 5, 6 người. Nguyễn Ánh phải chạy về Mỹ Tho rồi cùng mẹ và cung quyến chạy ra Phú Quốc. Lần này Nguyễn Huệ cho quân truy kích, cho phò mã Trương Văn Đa đem thủy quân vây ba vòng Nguyễn Ánh ở đảo Côn Lôn. Nhờ có bão, Nguyễn Ánh thoát vòng vây, qua đảo Phú Quốc, rồi sai người mời Bá-Đa-Lộc đến nhờ đi Pháp cầu viện (tháng 7 Quý Mão).
Và lần cuối cùng, vào tháng 12 năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Huệ đem quân đánh Gia Định và đại phá 2 vạn quân Xiêm cùng 300 chiến thuyền (35).
Rồi từ năm Bính Ngọ (1786) trở đi, thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ được phát triển, nẩy nở toàn vẹn, khiến ông mạnh tiến trên đài danh vọng như diều gặp gió, thoát khỏi quyền kiểm tỏa của anh ông để rồi Nguyễn Nhạc đành phải chấp nhận sự thoái bộ của mình. Rút kinh nghiệm những trận chiến dai dẳng với Nguyễn Ánh, phải 3, 4 lần vào đánh Gia Định, mỗi lần phải ở tới 5, 6 tháng trời đánh dẹp, từ khi đánh Phú Xuân, ông đã phối hợp giữa mặt trận quân sự, chính trị, tâm lý và với lối đánh thần tốc, ông đã thắng những trận lớn một cách nhanh chóng.
Đối với kẻ nội thù, ông đã đánh trận nào thắng trận ấy, từ chiến trường miền Nam ra chiến trường miền Bắc, đánh tan quân Nguyễn và làm sụp đổ hoàn toàn cơ nghiệp họ Trịnh.
Đối với ngoại thù, ông cả thắng 2 vạn quân Xiêm và đại phá 20 vạn quân Thanh (37) dù rằng nhà Thanh đã mưu nhờ tới cả quân Xiêm tiếp viện (38) để 2 mặt cùng đánh.
Con người cái thế anh hùng như Nguyễn Huệ có thể làm nổi những chuyện kinh thiên động địa hơn nữa với mộng đánh Tàu của ông. Nhưng anh hùng mệnh đoản, vào mạnh thu năm Nhâm Tý (1792) ông đã từ trần (39).
(Trích lược từ Tài  dùng binh của Nguyễn Huệ, Tập san sử địa số 13, tháng 1 năm 1969)
Chú thích:
  1. Trong bức thư đề tháng 6-1789, gởi cho Blandin, giáo sĩ Le Roy ví Nguyễn Huệ như một Alexandre (Tonkin 692, tr. 112). Trong nhựt ký tường trình của Giáo Hội Truyền Giáo ở Bắc Kỳ gởi về cho Hội Truyền Giáo Trung Ương Ba Lê gọi Nguyễn Huệ là Tân Attila (một Attila mới) (Archieves Nationales Fc: A 22, tr. 217)
  2. Archieves des Missions Etrangere de Paris, Cochichine vol. 801, tr. 176. (Nguyên văn: …
  3. Trường An: Phủ Trường An thuộc trấn Sơn Nam, nay thuộc Ninh Bình.
  4. HLNTC, sđd, tr. 252.
  5. ĐNLTCB, sđd, tờ 17 b.
  6. Lỗ Giang: Khúc sông Hồng Hà thuộc huyện Nam Xương, phủ Lý Nhân, Sơn Nam Thương lộ (trấn) (Hà Nam hiện nay).
  7. Núi Tam Tằng: ở huyện Yên Dũng, Bắc Ninh (nay là Bắc Giang)
  8. HLNTC, sđd, tr. 245.
  9. HLNTC, sđd, tr. 245.
  10. HLNTC, sđd, tr. 248.
  11. Cương mục, sđd, tr. 61.
  12. Cương mục, sđd, tr. 61.
  13. HLNTC, sđd, tr. 64.
  14. ĐNCBLT, sđd, tờ 24b.
  15. ĐNCBLT, sđd, tờ 27b.
  16. ĐNCBLT, sđd, tờ 28b.
  17. HLNTC, sđd, tr. 256.
  18. HLNTC, sđd, tr. 256.
  19. ĐNCBLT, sđd, tờ 37a – Trong bài biểu này. Có đoạn viết: “… Ôi đường đường là triều đình thiên tử lại để so hơn thua với nước bé thì ắt là muốn chinh chiến mãi không thôi để cùng khốn binh sĩ lạm dụng vũ lực bầu sướng khoái cái lòng tham lam tàn bạo thì thật lòng đại hoàng đế không nhẫn? Vạn nhất can qua mãi không dứt, tình thế đến nỗi nào thật không do thần muốn cũng không dám biết đến…” (37a). Rõ ràng là giọng văn đầy khiêu khích, khôn khéo về ngoại giao.
  20. ĐNCBLT, sđd, tờ 17b.
  21. ĐNCBLT, sđd, tờ 34b.
  22. Archives Nationales de Paris, Fc, A 22, tr. 267 – Đặng Phương Nghi dịch, Sử Địa sô 9-10, tr. 224.
  23. Archives des Missions Etrangere, Cochichine vol. 801, tr. 177. (nguyên văn “Il (Tây Sơn) mettent quelquefois sur pied 200, 300.000 hommes, la plupart forces a la verite mais tous determines la mort. Qui regard en arriere dans le combat a aussitot la tete tranchec…”)
  24. ĐNCBLT, sđd, tờ 242.
  25. BEFEO, 1912, t. XII No. 7, p. 8.
  26. Archive des Missions Étrangeres. Tonkin vol.692, p.369.
Thư của Girand viết từ Macao gửi cho Boiret đề ngày 25-11-1792, Đặng Phương Nghi có trích dịch đăng trong Sử Địa số này.
28. Archive des Missions Étrangeres, Coch, vol.746, p.361.
29. HLNTC, sđd, tr.87
30. HLNTC, sđd, tr.87
31. HLNTC, sđd, tr.87
32. Hoàng Xuân Hãn, La Sơn Phu Tử, sđd, tr. 140.
33. Manifeste de Quang Trung, Roy de la Cour de Chochinchine et du Tonquin à tous les mandarins, soldats et peuples dé provinces de Quảng Ngãi et de Qui Nhơn – Archive des Missions Étrangeres de Paris, Choch.vol. 746 p. 457 – Đặng Phương Nghi đã dịch và đăng trong Sử Địa số này.
34. ĐNTLCB, sđd, tr. 57.
35. ĐNTLCB, sđd, tr. 40-41.
36. ĐNTLCB, sđd, tr. 46-49.
37. Theo chính sử triều Nguyễn ghi 20 vạn quân Thanh. Theo tài liệu các giáo sĩ nói con số ấy lớn hơn : bản nhật ký của Giáo Hội Truyền Giáo Bắc Hà gửi cho Giáo Hội truyền giáo trung ương Paris ghi là 300.000 quân cả thủy lẫn bộ.
38. Trong bức thư của giáo sĩ Le Labousse, tử Sài Gòn gửi cho Letondal đề ngày 15 thagns 6 năm 1789 viêt : « … Nhà vua ở đây (Nguyễn Ánh) đã bắt gặp một bức thư viết nhân danh Hoàng Đế Trung Hoa gửi cho vua nước Xiêm La yêu cầu đến đánh quân Tây Sơn ở mặt phía Nam Hà này. Thật nhục biết bao cho vị Đại Đế phải cầu cứu tới một ông vua nước Xiêm bé nhỏ để tới đánh một kẻ cướp ». [Le Roy d’ici a in’ercepté une lettre escrire au nom de l’Epercur de Chinois au Rouy de Siam pour lui dire de venir atiaque les T.S de côté-ci par la Cochinchine. Quele houte pour le Grand Empereur d’eetre obligé de demander du secours à un petit roy de Siam pour combatre un volur] Ar M.E., C801, p.256.
39. Về ngày giờ Quang Trung mất, ông Hoàng Xuân Hãn có viết trong báo « Dư luận Hà Nội, 1946, số 28 » [sau này trích đăng vào phụ lục cuốn La Sơn Phu Tử. Ong Hoàng Xuân Hãn đã dẫn chứng rất tường tận để bác ngày chết là ngày 29 tháng 9 Nhâm Tý (13-12-172) mà chính quyền Việt Nam hồi đó đã tổ chức kỉ niệm trọng thể vào ngày ấy. Theo ông, vua Quang Trung mất vào ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý, tức ngày 15 tháng 9 năm 1792.

Tài dùng binh của Nguyễn Huệ – Kỳ II

NGUYỄN HUỆ VỚI LỐI HÀNH QUÂN VŨ BÃO.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét